Nhằm khắc phục những ảnh hưởng bất lợi của thời tiết, người chăn nuôi nên thực hiện một số giải pháp quản lý sức khoẻ cá nuôi vào thời điểm chuyển mùa như sau:
1. Những nguyên nhân có thể dẫn đến bệnh cá:
– Chất lượng nước bị thay đổi: Nhiệt độ nước thay đổi đột ngột vào tháng 12 đến tháng 2 (có thể xuống thấp đến 18 – 22oC) hoặc nhiệt độ tăng cao vào tháng 3 đến tháng 6 (lên đến 30 – 35oC), nhiệt độ ban ngày và ban đêm có sự chênh lệch lớn từ 7 – 10oC làm cho cá sốc bỏ ăn, suy yếu, tạo điều kiện cho sinh vật gây bệnh phát triển, làm cho cá dễ bị bệnh.
– Nước ao kém chất lượng do quản lý không đúng kỹ thuật hoặc nguồn nước cấp bị ô nhiễm hóa chất độc, vi khuẩn, vi rút.
– Sau mỗi đợt nắng nóng xen kẽ là các đợt mưa dẫn đến nhiệt độ nước giảm ngột, pH giảm, tảo chết phân hủy gây thiếu oxy tầng đáy, tạo khí độc H2S, NH3… làm cá nổi đầu, nếu không được xử lý kịp thời dẫn đến cá chết hàng loạt.
– Chất lượng thức ăn kém: Chất lượng thức ăn kém, không đủ dinh dưỡng cho cá sẽ tạo môi trường thuận lợi cho các tác nhân gây bệnh phát triển và làm ô nhiễm nước ao.
– Nguồn giống thả kém chất lượng: Cá có thể đã bị nhiễm bệnh từ nguồn giống thả nuôi chưa được kiểm tra chất lượng, mang sẵn mầm bệnh mà chưa được xử lý diệt trùng, khi thả cá xuống nuôi gặp thời tiết thay đổi sẽ dễ bị nhiễm bệnh.
2. Phòng bệnh tổng hợp cho cá:
*. Trước khi thả cá:
– Vệ sinh ao đầm sạch sẽ trước mỗi vụ nuôi: Dọn sạch cỏ; vét bùn đáy ao; lấp các lỗ xung quanh bờ ao; bón vôi để tiêu diệt mầm bệnh, ổn định pH và diệt tạp.
– Chọn loài cá nuôi phù hợp: Hiện nay có rất nhiều loại cá nuôi (như mè, trôi, trắm, chép, rô phi…). Để chọn được loài cá nuôi thích hợp, cần căn cứ vào điều kiện từng vùng sinh thái khác nhau, nhu cầu của thị trường và khả năng đầu tư của hộ chăn nuôi
– Chất lượng con giống: Chọn giống tốt, không mang mầm bệnh, cá tương đối đều cỡ, màu sắc sáng đẹp, bơi lội nhanh nhẹn, phản ứng nhanh, không bị dị hình, sây sát, nên mua giống ở những nơi uy tín… Trước khi thả giống cần tắm cá giống qua nước muối 2 – 3% trong 5 – 10 phút để sát trùng.
– Mật độ thả thích hợp: Nên thả đúng mật độ tùy theo từng loài cá: Nhóm cá không có cơ quan hô hấp phụ (rô phi, mè hoa, trắm cỏ, chép…) thả với mật độ dưới 3 – 4 con/m2; nhóm cá có cơ quan hô hấp phụ (tra, trê, rô đồng…) thả với mật độ 5 – 10 con/m2. Thả cá đúng mật độ để cá lớn nhanh lớn đều, ít bệnh, rút ngắn được thời gian nuôi.
– Nuôi ghép: Trong cùng một ao có thể nuôi ghép các loại cá với nhau để tận dụng không gian mặt nước và các loại thức ăn có trong ao vì mỗi một loại cá sống ở một tầng nước và sử dụng thức ăn khác nhau.
* Chăm sóc và quản lý ao nuôi
– Chăm sóc đúng kỹ thuật, cho ăn theo 4 định: Định lượng, định chất, định vị trí, định thời gian để đảm bảo cho cá khỏe mạnh, ít nhiễm bệnh. Nếu thức ăn là tấm cám nấu thì nên để vào sàng cho cá ăn để dễ quản lý được thức ăn.
Tranh thủ những ngày nắng ấm nhiệt độ trên 18oC cho cá ăn tích cực đủ về lượng, đảm bảo về chất, bổ sung Vitamin C để tăng cường sức đề kháng của cá, thường xuyên cấp nước mới vào ao để tăng cường oxy và không gian sống của cá. Định kỳ 2 tuần/lần dùng vôi bột té đều khắp mặt ao với lượng 2 – 3 kg/100m3 nước.
3. Trị một số bệnh cho cá lúc giao mùa:
Một số bệnh thường gặp là bệnh đốm đỏ, bệnh đường ruột, bệnh nấm thủy my, bệnh trùng mỏ neo…
– Bệnh đốm đỏ: Xuất hiện quanh năm, thường tập trung vào cuối mùa xuân, đầu mùa hè (tháng 3 – 5) mùa thu (tháng 8 – 10) khi nhiệt độ nước 25 – 300C. Biểu hiện cá kém ăn hoặc bỏ ăn, bơi lờ đờ trên tầng mặt, da cá tối màu, cá mất nhớt thô ráp, xuất hiện các vết loét ăn sâu vào cơ thể, mắt lồi, hậu môn viêm xuất huyết, bụng có thể chướng to, các vây xơ rách, các vây tia cụt dần, thường gặp ở cá trắm cỏ. Tỷ lệ chết từ 30 – 70%.
+ Phòng bệnh: Ngoài việc bổ sung Vitamin C cho vào thức ăn trước mùa bệnh: cá giống 4 gam/1kg cá/1 ngày, cá thịt 2 gam/1kg cá/1 ngày, cho ăn 3 ngày liên tục. Dùng thuốc Tiên Đắc trước một tháng để phòng bệnh trước khi thời tiết chuyển mùa, lượng 50 gam/250kg cá/1 ngày, cho ăn 3 ngày liên tục.
+ Trị bệnh: Dùng thuốc Tiên đắc 50 gam/50kg cá/1 ngày, cho ăn 5 – 7 ngày liên tục, thuốc được trộn vào thức ăn nấu chín để nguội hoặc trộn vào thức ăn tổng hợp trước khi cho ăn từ 30 – 60 phút.
– Bệnh nấm Thủy mi: Trên da xuất hiện những vùng trắng xám, có các sợi nấm nhỏ mềm. Sau vài ngày sợi nấm phát triển, đan chéo thành từng búi trắng như bông, có thể nhìn thấy bằng mắt thường. Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ môi trường nước 15-20oC.
+ Trị bệnh: Sử dụng Iodine với liều lượng 1 lít/5.000m3 nước ao nuôi
– Bệnh hoại tử gan thận mủ trên cá da trơn: Bơi lờ đờ, màu sắc nhợt nhạt, xuất huyết trên cơ thể; khi mổ quan sát trên gan, thận có lốm đốm trắng, ruột tích nước. Bệnh thường xuất hiện khi nhiệt độ môi trường 18 – 23oC
+ Phòng bệnh: Nên áp dụng biện pháp phòng bệnh tổng hợp như: Chọn giống khỏe mạnh trước khi nuôi để chúng phát triển bình thường. Chuẩn bị ao nuôi kỹ, cần phải vét bùn, phơi khô xử lý ao bằng vôi bột, loại bỏ cá tự nhiên. Thường xuyên rải vôi định kỳ với liều lượng 3kg/100m2. Diệt mầm bệnh bằng thuốc tím và các loại thuốc khác theo hướng dẫn ghi trên bao bì. Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cá và tăng cường Vitamin C vào thức ăn.
+ Trị bệnh: Có thể sử dụng thuốc tím với liều lượng 10g / m3 để tắm cho cá từ 30- 60 phút. K ết hợp bổ sung VitaminC, Glucan với lượng 3g/kg thức ăn/ngày nhằm nâng cao sức đề kháng cho cá.
– Bệnh trùng mỏ neo trên cá trắm cỏ, cá chép: Trùng hình mỏ neo ký sinh trên cơ thể làm cá ngứa ngáy, khó chịu, kém ăn, da mất sắc màu bình thường, bơi lờ đờ, phản ứng kém gầy yếu và chết. Bệnh thường xảy ra vào các ao lưu cá giống qua đông.
+ Trị bệnh: Sử dụng lá Xoan bó thành từng bó từ 10-15kg/bó/100m2 dìm xuống ao, lồng nuôi.
Lê Hằng
Trung tâm Khuyến nông Nghệ An