Đó là hướng đi nhiều triển vọng giúp người chăn nuôi khắc phục được các yếu tố bất lợi về nguồn nước, môi trường và chi phí đầu tư.
Tại Lâm Đồng, với điều kiện khí hậu thuận lợi, việc nuôi cá tầm đã được triển khai gần 15 năm qua với 3 hình thức nuôi chủ yếu gồm: nuôi nước chảy trong bể xi măng, nuôi lồng trên hồ chứa và nuôi nước chảy trong ao lót bạt.
Tuy nhiên, việc nuôi cá tầm hiện nay đang đứng trước nhiều khó khăn. Theo ông Nguyễn Viết Thùy – Giám đốc Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền Trung (đóng tại xã Hiệp Thạnh, huyện Đức Trọng), một trong những khó khăn trong phát triển nghề nuôi cá tầm hiện nay là nguồn nước ở các sông, suối đầu nguồn cung cấp cho nuôi cá tầm gần như đã bị khai thác hết. Ngoài ra, các hồ chứa cũng hạn chế về quy mô do sức tải môi trường.
Cũng theo ông Thùy, cá tầm là loài ăn đáy, có tập tính đào bới nền đáy để tìm thức ăn nên không thể nuôi trong ao đất, làm đục nước dẫn đến cá chết. Việc bê tông hóa toàn bộ ao nuôi thì chi phí lớn, trong khi hàm lượng ô xy trong ao nước tĩnh thấp, chỉ nuôi được mật độ thấp nên không hiệu quả. Do đó, việc ứng dụng công nghệ mới như mô hình “sông” trong ao có thể khắc phục được những khó khăn này để nuôi cá tầm trong các ao, hồ nước tĩnh ở Lâm Đồng.
Công nghệ nuôi thủy sản “sông” trong ao được phát triển vào năm 2008, hoạt động dựa trên nguyên lý tạo dòng nước tuần hoàn trong ao bằng hệ thống sục khí. Năm 2022, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lâm Đồng phối hợp với Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền Trung thực hiện Đề tài Ứng dụng công nghệ “sông” trong ao để xây dựng mô hình nuôi cá tầm thương phẩm phù hợp với điều kiện tỉnh Lâm Đồng.
Đối tượng nghiên cứu là cá tầm Xi-bê-ri (Acipenser baerii) với thời gian từ tháng 10/2022 đến tháng 4/2023. Các ao nuôi áp dụng thực hiện mô hình có diện tích 2.000 m2/ao và mực nước trong ao duy trì khoảng 1,7 m. Phần đáy ao được vét sạch bùn, san phẳng và phơi khô cứng. Bờ ao được gia cố theo dạng mái taluy rồi phủ bạt HDPE và lắp đặt hệ thống cống cấp, thoát nước cho ao nuôi.
Kích thước mương nuôi được thiết kế với chiều dài 25 m, rộng 5 m, sâu 1,8 m và xây dựng kiên cố bằng bê tông. Phần đáy mương cao hơn đáy ao 20 cm và có độ dốc đáy khoảng 2% nghiêng về cuối mương. Mực nước trong mương nuôi luôn đảm bảo 1,5 m.
Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền Trung đã xây dựng mô hình với 3 mương và nuôi theo mật độ khác nhau bao gồm 10 con, 13 con, 16 con/m2. Nhiệt độ trung bình khoảng 22 độ C, hàm lượng ô xy hòa tan được đảm bảo bằng hệ thống sục khí. Hệ thống sục khí cũng tạo ra dòng chảy qua mương nuôi, tạo môi trường tương tự như công nghệ nuôi bể nước chảy tự nhiên.
Theo phân tích của cán bộ Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền Trung, ở hệ thống này, thức ăn dư thừa và các chất thải của cá được tách khỏi hệ thống nuôi, nên không bị ô nhiễm hữu cơ. Mặt khác, việc tự xử lý môi trường nước trong ao, biến ao nuôi thành hệ sinh thái cân bằng ổn định trong suốt quá trình nuôi nên chủ động được nguồn nước tuyệt đối, không lệ thuộc nguồn nước bên ngoài cũng như thải nước ra bên ngoài, do đó kiểm soát được chất lượng môi trường, bệnh trong và ngoài hệ thống nuôi. Các yếu tố môi trường nước trong hệ thống nuôi cá tầm theo công nghệ “sông” trong ao được duy trì ổn định trong cả chu kỳ nuôi, phù hợp cho sinh trưởng và phát triển của cá tầm.
Hệ thống “sông” trong ao có thể thu gom, loại bỏ triệt để các chất thải lắng đọng dưới đáy mương và xử lý được hoàn toàn chất thải sau khi thu gom. Điều này giúp môi trường sạch, không phát thải các chất có thể gây ảnh hưởng môi trường bên ngoài hệ thống. Hệ thống nuôi gồm “sông” và ao trở thành một hệ sinh thái điển hình, luôn cân bằng trong quá trình vận hành. Đặc biệt có ưu thế ít thay nước, nên chủ động nguồn nước, cách ly bệnh dịch, thích ứng với biến đổi khí hậu, hạn chế triệt để việc xói mòn đất, ô nhiễm nước.
Sau 6 tháng nuôi, cá tại mương nuôi mật độ 10 con/m2 đạt khối lượng cao nhất với trên 0,9 kg/con, mương nuôi mật độ 13 con đạt trên 0,8 kg/con, mật độ 16 con/m2 có khối lượng trên 0,7 kg/con. Đây là kết quả tăng trưởng tương đối nhanh, tương đương với các mô hình nuôi trong bể nước chảy tự nhiên và nhanh hơn so với mô hình nuôi lồng trên hồ chứa hiện nay tại Lâm Đồng.
Ông Lê Văn Diệu – Phó Giám đốc Trung tâm Quốc gia giống thủy sản nước ngọt miền Trung khẳng định thêm: “Công nghệ “sông” trong ao có một số ưu điểm nổi bật, có cơ sở khoa học, phù hợp với thực tiễn sản xuất. Đơn cử như, hàm lượng ô xy hòa tan trong nước cao, ổn định trong suốt quá trình nuôi, tỷ lệ sống của cá đạt từ 80 – 90%. Mô hình này cũng quản lý, kiểm soát môi trường, phân cỡ cá, xử lý bệnh cá dễ dàng. Việc thu hoạch cá thịt cũng chủ động theo nhu cầu của thị trường”.
Nuôi cá tầm thương phẩm bằng công nghệ “sông” trong ao là hướng đi nhiều triển vọng để nhân rộng phát triển nghề nuôi cá tầm ở Lâm Đồng.
Ngọc Ngà
Nguồn: Báo Lâm Đồng