(Aquaculture.vn) – Lựa chọn vi khuẩn cho ấu trùng tôm (PL) có thể mang lại tác dụng bảo vệ chống lại vi khuẩn Vibrio gây bệnh.
Các nhà nghiên cứu từ Trung tâm Nghiên cứu Sinh học của Tây Bắc, Đại học Nuevo León, Trung tâm Nghiên cứu Thực phẩm và Phát triển AC và Đại học Girona đã đánh giá tác dụng bảo vệ của một hỗn hợp vi khuẩn ở ấu trùng tôm thẻ L. vannamei chống lại vi khuẩn Vibrio. Các nhà khoa học nhận thấy rằng, việc xử lý PLs bằng vi khuẩn ngăn chặn sự lây nhiễm Vibrio và giảm nồng độ của chúng trong nước nuôi không gây hại cho các cộng đồng vi khuẩn xung quanh.
Quần thể Vibrio và vi khuẩn
Vi khuẩn Vibrio phổ biến rộng rãi trong môi trường đại dương và một số loài Vibrio là nguyên nhân gây ra dịch bệnh ở động vật biển – đặc biệt là tôm penaeid, các loài cá khác nhau và động vật thân mềm. Một số chủng V. harveyi và V. campbellii có liên quan đến sự bùng phát dịch bệnh ở các trại sản xuất tôm giống và các cơ sở nuôi thương phẩm trên khắp thế giới. Chúng cũng có liên quan đến nhiễm trùng san hô.
Các nhà nghiên cứu cho biết: “Chúng tôi đã sử dụng các phương pháp tiếp cận phụ thuộc vào nuôi cấy và không phụ thuộc vào nuôi để khám phá tác động của chúng đối với các cộng đồng vi khuẩn có liên quan đến ấu trùng tôm post”. Theo kết quả của nghiên cứu, sử dụng cocktail phage làm giảm đáng kể số lượng Vibrio trong cả môi trường in vitro và in vivo.
“Ban đầu chúng tôi quan sát thấy rằng cả hai phage đều biểu hiện các hoạt động ly giải trong ống nghiệm (sinh sản của virus) chống lại một số loài Vibrio được phân lập từ các trang trại nuôi tôm bị nhiễm AHPND, chẳng hạn như V. alginolyticus , V. diabolicus và V. parahaemolyticus”.
Vi khuẩn là một giải pháp thay thế mới cho thuốc kháng sinh vì chúng có thể lây nhiễm và làm suy yếu các loài vi khuẩn cụ thể. Họ cũng nhấn mạnh rằng cả hai phage vẫn ổn định trong các điều kiện nhiệt độ và độ mặn khác nhau. Phage cocktail cũng có khả năng chống lại sự tiếp xúc với tia cực tím và chịu được chloroform.
Đánh giá in vivo
Trong quá trình đánh giá in vivo , tôm giống được lấy từ trại sản xuất giống thương mại và được phân phối ngẫu nhiên giữa bốn nhóm xử lý. Nhóm thuần tập đầu tiên (PVAB) bị nhiễm hỗn hợp vi khuẩn Vibrio ( V. alginolyticus , V. diabolicus và V. parahaemolyticus ). Không có phương pháp điều trị phage nào được cung cấp. Nhóm thuần tập thứ hai (PVAP) bị nhiễm hỗn hợp Vibrio và được điều trị bằng cocktail phage. Nhóm thuần tập thứ ba (PVAT) bao gồm tôm bị nhiễm hỗn hợp Vibrio và được điều trị bằng cocktail phage thứ hai. Nhóm đối chứng có tôm không bị nhiễm vi khuẩn Vibrio và không được xử lý phage.
Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng số lượng Vibrio trong nước nuôi ở những nhóm thuần chủng không có phage cao hơn đáng kể so với những người được xử lý bằng cocktail thực khuẩn. “Tương tự như vậy, không có phage nào được phát hiện trong các nhóm không được điều trị, điều này cho thấy rằng không có sự hiện diện tự nhiên của chúng, trong khi các nhóm được điều trị bằng cocktail phage cho thấy mật độ ổn định”, họ báo cáo.
Theo kết quả nghiên cứu, tôm được xử lý bằng thực khuẩn thể cũng ít bị tổn thương hơn và tích tụ lipid nhiều hơn trong tế bào gan tụy B, sau khi kiểm tra mô bệnh học.
Tác động của phage đối với cộng đồng vi khuẩn
Để xác định tác động của phage đối với cấu trúc cộng đồng vi khuẩn trong hệ sinh thái đường ruột tôm, các nhà khoa học đã sử dụng phân tích gen 16S rRNA. Phân tích so sánh cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê trong các cộng đồng vi khuẩn giữa nhóm được điều trị bằng phage và không được điều trị. Phân tích phân loại – phân loại vi khuẩn theo cấp độ họ – cho thấy họ Rhodobacteraceae có nồng độ cao, bất kể phương pháp điều trị được áp dụng. Các nhà nghiên cứu cũng báo cáo rằng vi khuẩn Vibrionaceae đã giảm đáng kể trong các nhóm được điều trị bằng phage.
Các nhà nghiên cứu kết luận rằng việc sử dụng vi khuẩn làm giảm số lượng các chủng Vibrio có khả năng gây bệnh ( V. alginolyticus , V. diabolicus và V. parahaemolyticus ), và cũng làm giảm các loài Vibrio khác như V. campbellii , V. jasicida , V. maritimus , V . thalassae , và V. xuii.
“Cả hai phage đều có khả năng ức chế sự phát triển của các loài Vibrio gây bệnh trong điều kiện in vitro và in vivo . Ngoài ra, phage cocktail đã ức chế một cách hiệu quả và có chọn lọc các quần thể Vibrionaceae trong ấu trùng tôm”, các nhà nghiên cứu kết luận.
Theo các nhà nghiên cứu, đặc điểm này có thể có lợi vì nó cho phép các mầm bệnh cụ thể bị tấn công mà không làm thay đổi các quần thể vi khuẩn khác. “Cocktail phage của chúng tôi cung cấp một giải pháp thay thế chống lại các bệnh nhiễm trùng do các loài Vibrio gây ra do sự giảm thiểu vi khuẩn và tăng sinh các phage vẫn còn trong hệ thống, tránh khả năng tái nhiễm bởi các quần thể Vibrionaceae tự nhiên hoặc các chủng đột biến kháng thuốc”.
Ngọc Anh