[Aquaculture.Vn] – Các ao nuôi tôm hình tròn ngày càng được nhiều người nuôi tôm áp dụng tại Indonesia, hình thức chuyển đổi này cũng nhận được sự ủng hộ từ Chính phủ.
Indonesia là một trong những nước sản xuất tôm lớn nhất ở Đông Nam Á. Ban đầu, vào những năm 1980, tôm sú (Penaeus monodon) là đối tượng được nuôi rộng rãi nhất và hầu hết nông dân ưa chuộng sử dụng ao hình chữ nhật lớn, diện tích trung bình từ 2.500 – 5.000 m2.
Những năm 2000, do ảnh hưởng bùng phát của dịch bệnh đốm trắng (WSSV) tấn công tôm sú, hầu hết những người nuôi tôm ở đây đã chuyển hướng sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Hình thức ao nuôi vẫn được giữ nguyên và ít có sự thay đổi, ngoài việc bổ sung thêm lớp lót HDPE hoặc chuyển sang ao nuôi bê tông.
Tuy nhiên, trong thập kỷ qua, mô hình nuôi tôm đã bắt đầu thay đổi, bao gồm cả việc xây dựng một số ao nhỏ hơn, có diện tích từ 1.000 m2 trở xuống. Sự phổ biến của các ao mini này là nhu cầu của những người muốn tham gia vào lĩnh vực này nhưng bị hạn chế về vốn và đất đai. Ban đầu, những ao nhỏ này có hình dạng chữ nhật truyền thống, dựa trên một cấu trúc rất đơn giản, sử dụng tre làm khung và bạt làm lớp lót. Loại ao này được bắt nguồn và phổ biến bởi những người nông dân ở Madura, Đông Java, tận dụng khoảng trống trong sân sau của họ.
Gần đây, xu hướng ao nuôi tôm quy mô nhỏ chuyển sang thiết kế hình tròn, điển hình là đường kính từ 5 – 30 m. Đây là loại hình trang trại phổ biến trong giới nông dân trẻ, trong khi chính phủ và các công ty tư nhân cũng đang tham gia phát triển loại hình ao này như một thí điểm cho thế hệ millennials và nông dân quy mô sản xuất nhỏ.
Phương án tốt nhất
Rizky Darmawan là một trong số những người nông dân nuôi tôm lâu năm đang thử nghiệm nuôi tôm trên bể hình tròn, ông đồng thời là Chủ tịch Hội Nông dân nuôi tôm trẻ Indonesia (Petambak Muda Indonesia/ PMI). Bắt đầu từ năm 2019, ông đã áp dụng thiết kế bể tròn nuôi tôm tại khu vực ao hiện có của mình ở Tây Nusa Tenggara (NTB). Việc chuyển đổi mô hình nuôi lấy cảm hứng từ Erwin Budiman đến từ Medan, Bắc Sumatra, một nông dân đã bắt đầu sử dụng thiết kế này vào năm 2016 và hiện là chủ tịch của Câu lạc bộ Tôm Indonesia (SCI).
“Chúng tôi xây dựng hai ao hình tròn đầu tiên vào năm 2019. Các ao của chúng tôi hiện đang bước sang chu kỳ thứ 4. Ban đầu, tôi quyết định xây dựng các ao hình tròn để lấp đầy dải đất hẹp còn lại trong khu vực ao của mình. Đồng thời, tiến hành R&D tại địa điểm nuôi”, ông nói.
Ông cũng đang thử nghiệm việc sử dụng các ao tròn để ương tôm của mình, vì ông có thể dễ dàng chuyển tôm giống sang các ao lớn để nuôi thương phẩm.
Hiện ông đang khai thác 10 ao hình tròn, đường kính trung bình 20 m ( diện tích năng suất 3.140 m2 ). Ông cũng đang xây dựng thêm 35 ao nuôi hình tròn khác ở hai địa điểm khác nhau.
Nhìn chung, ao nuôi tôm hình tròn được xây dựng bằng lưới thép hoặc tre làm khung và HDPE làm lớp lót bên trong. Tuy nhiên, cũng có những người sử dụng kết hợp thép mạ kẽm và sợi thủy tinh. Đường kính của các ao thay đổi từ 3 – 30 m.
Do mô hình nuôi còn mới, nên người nuôi tôm chưa hiểu rõ đầy đủ và vẫn còn nhiều điều cần học hỏi, điều chỉnh trong việc quản lý hệ thống ao này.
Trong quá trình nghiên cứu của mình, Rizky không áp dụng một hệ thống tiêu chuẩn nào mà thay vào đó, thử nghiệm các phương pháp sản xuất khác nhau. “Chúng tôi chỉ quyết định thử nó và xem kết quả như thế nào. Nếu nó hoạt động, chúng tôi có thể tăng hiệu quả của các ao nuôi của mình”, ông giải thích.
Theo Rizky, ưu điểm của thiết kế hình tròn bao gồm việc đảm bảo lưu thông nước dễ dàng, do đó chất thải dễ dàng được loại bỏ hơn qua cống xả. Ngoài ra, kích thước ao nhỏ hơn giúp dễ dàng kết hợp với các công nghệ mới, chẳng hạn như RAS (hệ thống nuôi trồng thủy sản tuần hoàn).
Bên cạnh đó, thách thức mà họ gặp phải là các nhân viên kỹ thuật tại trang trại cần phải tập trung hơn, bởi với 1ha ao nuôi truyền thống sẽ có từ 2 – 4 bể hình chữ nhật, với các ao hình tròn, con số này lên tới 10 – 20 ao, tiêu tốn nhiều nhân công hơn.
Ông lưu ý: “Tuy nhiên, do ao được chia thành nhiều đơn vị nên việc nuôi tôm trở nên tương đối an toàn, vì khi dịch bệnh xảy ra, ít tôm bị ảnh hưởng hơn. Vì vậy, chúng tôi có thể giảm thiểu rủi ro”.
Risky nhận thức rằng điều quan trọng nhất là duy trì lợi nhuận. Thay vì áp dụng công nghệ mới nhất ngay lập tức vào các ao tròn của mình, ông bắt đầu với cấp độ thấp hơn cho đến khi tìm ra hệ thống tối ưu. Ông vẫn chưa đầu tư vào số hóa và công nghệ liên quan đến IoT. Do đó, hiện ông đang thả tôm với mật độ 150 con (tôm post)/ m2. Với mật độ này, mục tiêu sản lượng mà anh muốn đạt được là 1,3 tấn/ ao trong 90 ngày – tương đương 41 tấn/ ha.
Để quản lý chất lượng nước, ông đã áp dụng các phương pháp tương tự các ao thông thường, thay nước hàng ngày nếu cần. Ông cũng đã thực hiện một nghiên cứu nhỏ để tìm ra cách tốt nhất để duy trì mức oxy hòa tan, thử nghiệm nhiều cách kết hợp khác nhau, bao gồm việc sử dụng 1 cánh khuấy với 1 quạt thổi, 2 cánh khuấy với 1 quạt thổi và 1 cánh khuấy với 1 nanojet. Ông nói: “Cho đến nay, bằng cách sử dụng một cánh khuấy, chúng tôi có thể thu gom bùn ở giữa ao. Vì vậy, chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp này cho chu kỳ tiếp theo”.
Việc quản lý thức ăn cũng gần giống như trong các ao lớn và ông sử dụng máy cho ăn tự động Profeeder, được sản xuất bởi Công ty Phát triển Nuôi trồng Thủy sản Indonesia, để đạt được hiệu quả tối ưu. Với hệ thống này, hệ số chuyển đổi thức ăn (FCP) có thể đạt dưới 1,2.
Rizky dự đoán rằng các ao hình tròn sẽ ngày càng trở nên phổ biến ở Indonesia. Một số người nuôi là thành viên của PMI cũng đã bắt đầu phát triển nó. Đã có rất nhiều người tham khảo mô hình ao nuôi tròn này từ ông. “Một số người nuôi đã áp dụng ao tròn và phát triển thiết kế theo cách riêng của họ, tôi cũng đã đến thăm và học tập”, ông chia sẻ.
Cơ hội cho người nuôi quy mô nhỏ
Hệ thống ao tròn cũng được khởi xướng bởi Nonot Tri Waluyo, một nhà sản xuất tôm từ một công ty thủy sản tổng hợp, Central Proteina Prima (CPP). Thông qua công ty của mình, ông nhắm đến những nông dân có nguồn lực hạn chế như vốn và đất đai, trở thành đối tác của mình. Theo ông, những ưu điểm của mô hình ao tròn bao gồm hiệu quả sử dụng đất, thiết thực hơn, chi phí thấp hơn và phù hợp với các hộ chăn nuôi quy mô nhỏ. Ông cũng lưu ý rằng những ao này có thể được xây dựng chỉ trong 48 giờ.
Các ao tròn do các đối tác của CPP sở hữu có đường kính bắt đầu từ 15 m. Tuy nhiên, theo Nonot, hầu hết có đường kính từ 28 – 30 m. Để có hiệu suất tối ưu, ao 30 m cần ba bánh chèo để duy trì mức oxy hòa tan.
Mật độ thả với hệ thống này có thể được đẩy lên đến 200 PL/ m2, nhưng tất nhiên việc quản lý trang trại sẽ khó khăn hơn ở mật độ cao hơn. Đối với quy mô hộ gia đình, theo Nonot, mật độ 100 – 125 con/ m2, khá có lợi và thực tế để đạt được tỷ lệ sống của tôm là 80 – 90%.
Nonot tin rằng việc quản lý chất lượng nước trong các ao hình tròn dễ dàng hơn, vì chất thải hữu cơ có thể được tập trung ở trung tâm của ao và dễ dàng được loại bỏ thông qua cống trung tâm. Vì vậy, “phòng chơi” cho tôm cũng ngày càng rộng hơn. Tình trạng này có thể làm giảm mức độ căng thẳng của tôm và giúp chúng khỏe mạnh hơn.
Nonot và CPP đã khởi xướng ao nuôi tôm hình tròn này ở nhiều vùng khác nhau, bao gồm Lampung, Trung Java, Đông Java và Tây và Đông Nusa Tenggara.
Hiểu Lam (Lược dịch từ Thefishsite)