Thứ Hai, 25/09/2023, 11:00

Một số mầm bệnh phổ biến trên lươn đồng

Lươn đồng là đối tượng nuôi có nhiều tiềm năng do thịt lươn có nhiều dinh dưỡng, thời gian nuôi ngắn, chi phí đầu tư thấp, dễ nuôi, giá cả ổn định đem lại hiệu quả kinh tế cao, giúp cải thiện đời sống cho người dân.

Lươn là đối tượng nuôi có nhiều tiềm năng do thịt lươn có nhiều dinh dưỡng,... Ảnh: allianceforthebay.org
Lươn là đối tượng nuôi có nhiều tiềm năng do thịt lươn có nhiều dinh dưỡng,… Ảnh: allianceforthebay.org

Do nhu cầu nuôi lươn thương phẩm tăng cao nên sản xuất lươn giống bằng phương pháp sinh sản nhân tạo cũng được quan tâm nhiều hơn. Tuy nhiên, người nuôi lươn cũng gặp những khó khăn như thiếu con giống chất lượng tốt, thời tiết bất thường và nhiều loại bệnh xảy ra thường xuyên gây trở ngại trong quá trình nuôi lươn. Người nuôi lươn tận dụng  nguồn thức ăn tươi sống hoặc thức ăn công nghiệp, sử dụng các vật liệu sẵn có để làm giá thể cùng với phương thức quản lý đơn giản nên lươn nuôi dễ mắc bệnh làm ảnh hưởng đến  tỷ lệ sống và năng suất  nuôi.

Một số mầm bệnh đã được nghiên cứu cho thấy các chủng vi khuẩn phân lập từ lươn đồng có biểu hiện của bệnh xuất huyết là do vi khuẩn Aeromonas hydrophilaAeromonas veronii có khả năng gây bệnh, làm tổn thương mô và gây chết lươn. Tỷ lệ tử vong từ 40 đến 80% và lươn chết sau 2-3 ngày nhiễm  bệnh.  Ngoài ra, một số bệnh thường gặp ở lươn nuôi như bệnh viêm ruột, bệnh đỏ da, bệnh lở loét, bệnh thối đuôi, bệnh do giun sán nội ký sinh, đĩa ký sinh, đốm đen, bệnh  nấm  thuỷ mi đã được một số tác giả mô tả và ghi nhận.

Nghiên cứu mới đây tại trường Đại học Cần Thơ cho thấy một số mầm bệnh ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của lươn đồng cả giai đoạn giống và thương phẩm.

Mẫu lươn giống và lươn nuôi thương phẩm được thu ngẫu nhiên từ các bể nuôi của 6 trại nuôi lươn tại tỉnh Vĩnh Long sau đó kiểm tra mức độ nhiễm ký sinh trùng và vi khuẩn.

Biểu hiện bên ngoài của lươn
Biểu hiện bên ngoài của lươn

– (A) lươn khỏe

– (B) lươn đỏ hậu môn (mũi tên)

Kết quả ghi nhận được 6 giống trùng thuộc ngành giun sán ký sinh trong ruột lươn gồm CamalanusCarassotremaCaryophyllaeusClonorchisProteocephalus và Pallisentis không tìm thấy ký sinh trùng trên lươn giống. Với lươn nuôi thương phẩm, giống giun tròn Camalanus có tỷ lệ nhiễm cao nhất (38,9%), giống sán dây Caryophyllaeus có tỷ lệ nhiễm thấp nhất (23,3%).

Các giống ký sinh trùng được ghi nhận bao gồm: giun đầu gai Pallisentis, giun tròn Camalanus, sán lá song chủ Carassotrema và Clonorchis, sán dây Proteocephalus và Caryophyllaeus. Các mẫu lươn nuôi thương phẩm thường bị nhiễm giun sán ở giai đoạn trưởng thành, hầu như không phát hiện thấy ấu trùng metacercaria ký sinh.

Giun đầu gai Pallisentis (A), sán lá song chủ Carassotrema (B) và Clonorchis (C)
Giun đầu gai Pallisentis (A), sán lá song chủ Carassotrema (B) và Clonorchis (C) trên lươn nuôi thương phẩm
Giun tròn Camalanus (A), sán dây Proteocephalus (B) và Caryophyllaeus (C) trên lươn nuôi thương phẩm
Giun tròn Camalanus (A), sán dây Proteocephalus (B) và Caryophyllaeus (C) trên lươn nuôi thương phẩm
Biểu hiện bên ngoài của lươn bệnh
Biểu hiện bên ngoài của lươn bệnh

– (A) lươn nuôi thương phẩm bị xuất huyết kèm mảng trắng

– (B) lươn giống bị trương bụng, xuất huyết

– (C) lươn nuôi thương phẩm bị phù đầu

– (D) lươn giống bị xuất huyết toàn thân

Hầu hết các mẫu lươn nhiễm giun sán cường độ nhiễm cao thường có dấu hiệu bệnh lý là bụng trương to, chứa nhiều hơi trong xoang bụng, cơ thể gầy yếu, thường có biểu hiện của bệnh xuất huyết kèm theo. Điều này có thể là ảnh hưởng của các giống ký sinh trùng nội ký sinh làm tổn thương niêm mạc ruột, từ đó gây rối loạn chức năng tiêu hóa, làm lươn suy yếu sức khoẻ.

Kết quả phân tích cho thấy vi khuẩn phân lập được phổ biến trên các mẫu thận của lươn bị bệnh. Các dấu hiệu bệnh đặc trưng bao gồm bụng trương; hậu môn đỏ, sưng to; da có những mảng trắng, xuất huyết, lỡ loét  và gan, thận, tỳ tạng đỏ bầm, mềm nhũn. Kết quả định danh bằng kit API 20E đã xác định loài vi khuẩn A. hydrophilanhạy rất cao với các kháng sinh cefotaxime và florfenicol. Do đó có thể sử dụng 2 loại kháng sinh này để trị khi lươn bị nhiễm bệnh.

Kết quả từ nghiên cứu góp phần cơ sở khoa học cho việc quản lý sức khỏe và phòng trị bệnh lươn hiệu quả hơn, góp phần phát triển bền vững mô hình ương nuôi lươn hiện nay.

Minh Minh
Nguồn: tepbac.com