Thứ Sáu, 11/08/2023, 8:00

Nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản: Áp lực biên lợi nhuận trong bối cảnh tăng giá nguyên liệu

Nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản: áp lực biên lợi nhuận trong bối cảnh tăng giá nguyên liệu

(Aquaculture.vn) Một trở ngại không hồi kết bắt đầu từ giữa năm 2020, khi chi phí sản xuất thức ăn, vận chuyển tăng cao, kéo theo là giá nguyên liệu thô như đậu tương, ngô tăng. Sau gần hai năm chịu lãi thấp, các nhà máy thức ăn thủy sản đang ở đâu về tỷ suất lợi nhuận?

Nhà máy sản xuất thức ăn thủy sản: áp lực biên lợi nhuận trong bối cảnh tăng giá nguyên liệu

Giá nguyên liệu thức ăn thủy sản tăng cao

Từ tháng 1/2021-5/2022, giá đậu tương và ngô đã tăng liên tục lần lượt là 60% và 74%. Tại Indonesia, giá cám gạo vẫn ở mức 5,200 IDR/kg (USDO.34) (tháng 3/2023) và tác động rất lớn tới sản xuất, bởi cám gạo chiếm 12-30% tổng lượng thức ăn thủy sản. Deny Mulyono, Chủ tịch Hiệp hội các nhà máy thức ăn chăn nuôi, thủy sản Indonesia (GPMT), cho biết: “Khó khăn trong việc mua nguyên liệu cũng gây ra sự cạnh tranh với các nước sản xuất thức ăn thủy sản khác”.

Hiện, Indonesia đang xuất khẩu ngô sang Việt Nam và Philippines, GPMT hy vọng Bộ Thương mại Indonesia sẽ hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thức ăn thủy sản. T.S Budi Tangendjaja, cố vấn kỹ thuật khu vực của USGC ở Indonesia, cho biết: “Mặc dù ngô địa phương có giá trị năng lượng thấp hơn so với ngô Mỹ, nhưng nó rẻ hơn và có thể là một lựa chọn bằng cách điều chỉnh công thức”. Các nhà máy thức ăn chăn nuôi, thủy sản phải vật lộn với giá khô đậu tương cao cho đến khi chính phủ cho phép hạn ngạch nhập khẩu nhất định vào tháng 5 năm 2022.

Giá thức ăn thủy sản cao và những ảnh hưởng đối với nông dân

Trung Quốc

T.S Yufan Zhang, Giám đốc phát triển Alltech Aqua Trung Quốc và Giám đốc kỹ thuật khu vực Đông Nam Á cho biết, vào năm 2022, các công ty thức ăn thủy sản Trung Quốc có thể đã ban đầu tăng giá từ 5 đến 6 lần. Tổng mức tăng của thức ăn cho cá là khoảng 800 CNY/tấn (113,2 USD) và thức ăn cho tôm là hơn 1.000 CNY/tấn (141,5 USD).

Nguyên nhân chính của việc tăng giá là do chi phí nguyên liệu tăng mạnh: bột cá tăng từ 1,698,5 USD/tấn lên 1.81,7 USD/ tấn, bột đậu nành tăng từ 495,4 USD/ tấn lên 665,3 USD/tấn và dầu cá tăng từ 1.981,6 USD/tấn lên gần 4.246,3 USD/tấn. “Nếu thức ăn nuôi tôm chứa 20% bột cá, 20% bột đậu nành và 2% dầu cá, thì chi phí tăng chỉ riêng cho ba mặt hàng này đã gần 141,9 USD/tấn”, T.S Zhang cho biết.

Giá thức ăn thủy sản cao ở Trung Quốc sẽ dẫn đến sự phụ thuộc nhiều hơn vào hỗ trợ tài chính. “Những gì chúng tôi thấy là tôm cỡ lớn được bán với giá thấp và người nuôi bị lỗ nặng. Sau đó, các nhà phân phối thức ăn thủy sản không thể thu được khoản thanh toán tín dụng và không thể hỗ trợ nông dân, khiến người nuôi không còn mặn mà với nghề”, T.S Zhang cho biết thêm.

Ấn Độ

Giá thức ăn nuôi tôm tăng nhẹ chỉ 5% từ 0,96 USD/kg lên 1,01 USD/kg. Đã có mức tăng từ 8-10% đối với một số nguyên liệu thức ăn cho tôm, trong đó từ 6-8% đối với bột cá, đậu nành Hipro ở mức 7-9% và bột mì ở mức 20-25%. Giá thức ăn cho cá tăng ở mức 8,57 từ 42USD/kg lên 48USD/kg. Chi phí sản xuất thức ăn thủy sản bị ảnh hưởng do tăng chi phí năng lượng ở mức 7-8% và lao động ở mức 5-6%.

Theo Seshu Akina từ công ty Deepak Nexgen Feeds: “Hầu hết người nông dân đều bị lỗ. Điều này làm việc nhập hàng mới sẽ chậm lại trong năm nay do các vấn đề về dòng tiền và hỗ trợ tín dụng tối thiểu từ các nhà phân phối”.

Indonesia

Theo Haris Muhtadi, Giám đốc Kinh doanh của CJ Feed & Care Indonesia các nhà máy thức ăn thủy sản Indonesia tăng giá chậm. Trung bình, mức tăng là 10%, tức là 0,1 USD/kg đối với thức ăn cho tôm và thức ăn cho cá là khoảng 0,07 USD/kg, tăng 11%. Đối với bột đậu nành mức tăng là 30%, lao động ở mức 4% và các nguyên liệu thức ăn thủy sản khác ở mức 20%. Ông cũng cho rằng việc nuôi tôm giảm chủ yếu là do giá thấp và dịch bệnh bùng phát chứ không phải do ảnh hưởng của tăng giá thức ăn thủy sản.

Thái Lan

Kể từ năm 2020, các công ty thức ăn thủy sản Thái Lan đã ba lần tăng giá thức ăn nuôi tôm, khoảng 9-12%. Ông Vinij Tansakul, Tư vấn nuôi trồng thủy sản tại Thái Lan cho hay: “Lần cuối cùng chúng tôi thấy mức tăng là vào tháng 10/2022. Nhưng chi phí của tất cả các thành phần đã tăng không dưới 20-30%. Ví dụ, bột cá tăng 40%. Tuy nhiên năm 2023, chúng tôi chưa thấy đợt tăng giá nào”, (Hình 1). Ở Thái Lan, các nhà máy thức ăn thủy sản cần có sự cho phép của chính phủ để tăng giá.

Việt Nam

Đã có sự tăng giá tổng cộng 10-10,5% đối với thức ăn cho tôm. Đối với thức ăn cá lóc và cá rô phi, mức tăng lần lượt là 11,3 và 12%. Nguyên nhân được cho là tăng chi phí nguyên liệu thức ăn: bột cá (+32%), khô dầu đậu nành (+16%); bột mì (+31%), dầu cá (+12,72) và các loại khác ở mức 10-16%.

Ông Chuang Jie – Cheng, Tổng Giám đốc Công ty TNHH Khoa Kỹ Sinh vật Thăng Long cho biết : “Giá thức ăn thủy sản cao hơn so với năm 2019 nhưng thật không may, tỷ suất lợi nhuận của các công ty thức ăn thủy sản đang giảm”.

“Trong hai năm, từ 2021 đến 2022, giá thức ăn tôm và cá ở Việt Nam đã tăng khoảng 200 USD/tấn do chi phí sản xuất tăng vọt. Đồng thời, giá bán của cá và tôm thấp, người nuôi tôm cũng chịu thiệt hại lớn do dịch bệnh. Vì vậy, các nhà phân phối đã kiểm soát đầu tư của họ vào thức ăn và cấp tín dụng”, ông Chuang cho biết thêm.

“Mặc dù chúng tôi ước tính rằng thị trường thức ăn nuôi trồng thủy sản nói chung đã giảm 15-20%, nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục tăng thị phần của mình trên thị trường thức ăn thủy sản. Chúng tôi tin rằng Thăng Long đang phát triển và có sự tiến bộ vượt trội trong công thức thức ăn thủy sản để thúc đẩy khả năng cạnh tranh”, ông Chuang cho hay.

Bối cảnh cạnh tranh

Ông Tansakul nhận xét: “Đa dạng hóa công thức thức ăn thủy sản là chiến lược tiếp thị mà hầu hết các doanh nghiệp áp dụng. Có công thức phòng bệnh, tạo màu sắc hấp dẫn; thức ăn chức năng hỗn hợp bao gồm cả những loại phù hợp với yêu cầu của người nuôi, đặc biệt là các trang trại lớn. Một số chiến lược marketing phổ biến bao gồm hỗ trợ giảm giá cho các khoản thanh toán bằng tiền mặt, gia hạn thời hạn tín dụng và cung cấp đào tạo kỹ thuật nuôi tại các trang trại của khách hàng và tại các khu vực nuôi”.

Để duy trì năng suất và hiệu quả, các nhà máy thức ăn chăn nuôi thủy sản đã và đang đa dạng hóa các loại sản phẩm. Ở Thái Lan, một số nhà máy thức ăn chăn nuôi đã đầu tư vào năng lượng mặt trời để giảm sự nóng lên toàn cầu và tiết kiệm chi phí năng lượng.

Những mong đợi vào năm 2023

Ông Seshu dự đoán, tại Ấn Độ nhu cầu thức ăn cho tôm sẽ thấp hơn, chỉ 0,9-1,0 triệu tấn nhưng nhiều hơn đối với thức ăn cho cá ở mức 1,2-1,3 triệu tấn cho năm 2023, do khoảng 15-20% người nuôi tôm đã chuyển sang nuôi cá.

Theo ông Haris, dự đoán nhu cầu thức ăn thủy sản của Indonesia sẽ cao hơn ở mức 1,38 triệu tấn thức ăn cho cá và 415.000 tấn thức ăn cho tôm trong năm 2023.

Tại thị trường Trung Quốc, Zhang dự đoán thị trường thức ăn thủy sản sẽ giảm hơn 10%, vì sự suy giảm của nó đã được nhìn thấy trong quý đầu tiên của năm 2023. Còn theo ông Chuang, có những tác động tiêu cực bao gồm sự bùng phát dịch bệnh tôm nghiêm trọng, tình trạng tắc nghẽn toàn cầu không thể giải quyết được và nhu cầu thị trường giảm mạnh. Do đó, ông ước tính rằng nhu cầu về thức ăn thủy sản tại Việt Nam sẽ vẫn tương tự như năm 2022.

Sẽ có một đợt tăng giá khác?

Ông Chuang cho biết thêm: “Giá thức ăn cho cá và tôm đã tăng 1,5-2,0% trong nửa đầu năm 2023. Trong nửa cuối năm nay, chúng tôi dự đoán giá protein động vật và thực vật, tinh bột và dầu cá sẽ có xu hướng tăng. Vì vậy, đây cũng là những khó khăn mà các nhà máy thức ăn và người nuôi phải đối mặt“.

Lasily Zhang cho biết: “Đầu năm nay, giá nguyên liệu vẫn ở mức cao, giá bột cá vẫn tăng. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng giá thức ăn chăn nuôi, thủy sản sẽ tăng hơn 5% trong năm nay. Vấn đề đáng lo ngại nhất trong năm nay là chuỗi cung ứng tài chính của sản xuất và phân phối thức ăn thủy sản. Nếu nông dân khó có lãi thì tình hình tài chính của toàn ngành bị ảnh hưởng. Nếu nửa cuối năm nay nền kinh tế không khởi sắc như dự kiến, một số công ty có chiến lược bán tháo manh mún có thể chịu áp lực lớn về tài chính”.

Ngọc Anh (Theo Aquaculture Asia Pacific)