(Aquaculture.vn) – Hội chứng tăng trưởng chậm (MSGS) trên tôm sú Penaeus monodon đã được báo cáo ở nhiều quốc gia. Mặc dù không dẫn đến tử vong, nhưng tốc độ tăng trưởng chậm ở cấp độ ao nuôi gây thiệt hại kinh tế đáng kể.
Tác nhân gây bệnh
Một số mầm bệnh tiềm ẩn đã được xác định từ tôm bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, chưa có mối quan hệ nhân quả xác nhận nào được thiết lập. Hơn nữa, người ta đã thừa nhận từ lâu rằng dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản là biểu hiện của sự tương tác phức tạp giữa vật chủ, mầm bệnh và môi trường.
Các tác nhân gây bệnh/ bệnh do vi khuẩn ảnh hưởng đến tôm nuôi bao gồm bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) do độc tố được mã hóa bởi các gen mang plasmid của Vibrio parahaemolyticus hoặc “bệnh nhiễm khuẩn” do Vibrio harveyi, V. parahaemolyticus gây ra, V. alginolyticus và các loài khác; bệnh vi bào tử trùng gây chậm lớn (EHP), do vi khuẩn nội bào Hepatobacter penaei gây ra.
Mặc dù không phải là một hiện tượng mới, nhưng nuôi tôm hiện đang bị ảnh hưởng bởi một số hội chứng bệnh chưa rõ nguyên nhân. Việc làm sáng tỏ các nguyên nhân này là cần thiết để xác định các mầm bệnh liên quan, các nguyên nhân tiềm ẩn khác và các điều kiện tiên quyết cần thiết để phát hiện và kiểm soát mầm bệnh.
Hơn nữa, điều quan trọng là phải xác định những bệnh nào có thể được phân loại là “hạn chế thương mại” (bệnh do mầm bệnh gây ra có liên quan đến thương mại quốc tế) và “hạn chế sản lượng/ sản xuất” (bệnh hội chứng mãn tính dẫn đến thiệt hại sản xuất đáng kể nhưng không trực tiếp trên thương mại quốc tế). Tổng quan này tập trung vào các biểu hiện khác nhau của sự tăng trưởng chậm/ chậm phát triển ở các loài tôm Penaeidae.
Rối loạn tăng trưởng không tối ưu (SoGD) ở tôm nuôi
Trong năm 2002, MSGS đã ghi nhận tại các vùng nuôi tôm trên khắp Thái Lan, liên quan đến việc thiệt hại khoảng 36% (khoảng 300 triệu USD) trong sản lượng hàng năm của tôm sú nuôi P. monodon. Vào thời điểm đó, trong số các vấn đề về dịch bệnh nghiêm trọng nhất ảnh hưởng đến việc nuôi tôm sú P. monodon thì hội chứng tăng trưởng chậm MSGS được xếp hạng thứ ba sau WSSV đốm trắng và YHV bệnh đầu vàng trên tôm.
Gần như đồng thời giữa năm 2004, một trường hợp tương tự về tốc độ tăng trưởng chậm bất thường đã được báo cáo từ một trang trại thương mại P. monodon ở Đông Phi. Sự xuất hiện này được đặc trưng bởi sự thay đổi lớn về kích thước, không có tỷ lệ chết bất thường và tăng trưởng chậm (trọng lượng cơ thể trung bình của động vật chậm phát triển được báo cáo là ít hơn 30% so với dự kiến) Penaeus monodon nuôi ở Ấn Độ cũng cho thấy sự tăng trưởng khác biệt gây trở ngại đáng kể cho sản xuất.
Trong một nghiên cứu được thực hiện về tác động kinh tế của dịch bệnh trong giai đoạn 2006–2008, Kalaimani et al. (2013) ước tính rằng hội chứng tăng trưởng chậm và phân trắng ở tôm sú P. monodon ở Ấn Độ đã dẫn đến thiệt hại về sản lượng là 5.726 tấn, tương đương 1,2 tỷ Rupi (21,64 triệu USD) hàng năm.
Các mầm bệnh liên quan
Tôm chậm phát triển đã được báo cáo là có liên quan đến một số mầm bệnh (một số bệnh do vi rút và các mầm bệnh khác). Trước khi MSGS được báo cáo từ tôm nuôi ở Thái Lan, Parvovirus gan tụy (HPV) được cho là nguyên nhân gây ra tốc độ tăng trưởng chậm ở tôm sú P. monodon. Nghiên cứu của Flegel & cs., 1999 cũng báo cáo vi rút HPV ở tôm chậm phát triển gây còi cọc tôm và họ tìm thấy mối tương quan thống kê tiêu cực giữa mức độ nghiêm trọng của vi rút HPV và chiều dài của tôm.
Sự chậm phát triển ở tôm nuôi đã được ghi nhận là một trong những kết quả của việc nhiễm Penaeus monodon nudivirus (PmNV) (trước đây được gọi là monodon baculovirus hoặc MBV). Hơn nữa, vì con đường của PmNV đến hệ thống nuôi thương phẩm là qua ấu trùng bị ô nhiễm có nguồn gốc từ tôm bố mẹ bị nhiễm vi rút, nên việc chuyển giao có thể được ngăn chặn thông qua sàng lọc tôm bố mẹ và hậu ấu trùng.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng tình trạng nhiễm nhiều vi rút thường gặp ở tôm bình thường và tôm còi cọc. Điều này cho thấy việc xác định các mầm bệnh đã biết từ tôm bị ảnh hưởng chỉ tạo thành một cách tiếp cận, một nguyên nhân gây bệnh duy nhất cho tôm tăng trưởng chậm là điều khó xảy ra.
Chayaburakul & cs. (2004) cho rằng MSGS không phụ thuộc vào cường độ lây nhiễm của vi rút mà phụ thuộc vào một số yếu tố quan trọng khác như tác nhân gây bệnh chưa biết, yếu tố không gây bệnh hoặc các biến thể di truyền của mầm bệnh đã biết được đặt tên dự kiến là tác nhân tăng trưởng chậm monodon (MSGA).
Các báo cáo chỉ ra một loạt các tác nhân gây bệnh được xác định/ phân lập/ liên quan đến sự chậm phát triển/ còi cọc ở P. monodon từ các khu vực khác nhau trên thế giới, mặc dù không có bằng chứng thuyết phục nào về mối liên quan của chúng.
Laem-Singh Vi rút
Laem Singh Virus (LSNV) đã được quan sát bằng phương pháp lai tại chỗ (ISH) ở cả tôm bình thường và tôm bị ảnh hưởng bởi hội chứng chậm phát triển MSGS, cho thấy LSNV không có khả năng là nguyên nhân duy nhất của MSGS.
Các phân tích TEM và ISH cho thấy LSNV được phát hiện trong các mô mắt chỉ ở tôm nhỏ, từ ao nuôi MSGS. Mối liên hệ (nhưng không phải là nguyên nhân của nó) đã được chứng minh giữa sự tăng trưởng chậm ở ao nuôi và LSNV ở mắt, nhưng mắt/ mô não không bị nhiễm trong các ao dương tính với LSNV với CV bình thường.
LSNV đã được báo cáo từ Ấn Độ và các nước khác ở châu Á không có mối quan hệ nhân quả chính xác với tăng trưởng chậm. Sau khi phát hành LSNV, Flegel (2008) đề xuất rằng LSNV là nguyên nhân “cần nhưng không đủ” của hội chứng tăng trưởng chậm MSGS; các tác nhân gây bệnh khác hoặc các yếu tố môi trường cũng quan trọng trong các biểu hiện của bệnh. Điều cần thiết là phải xem CV của kích thước/ trọng lượng tôm trong ao được cập nhật khi xác định xem ao đó phải là đối tượng của MSGS hay không.
Trường hợp định nghĩa cho MSGS là ao nuôi, không phải mô tả từng con tôm, vì nó phải đáp ứng điều kiện, quần thể mà nó có chứa CV từ 35% trở lên để phân bố trọng lượng chuyển sang kích thước nhỏ hơn trường thị kích thước.
Một số tác giả cho rằng sự chậm phát triển được báo cáo trong MSGS là do ức chế peptit CHH trong thùy thị giác, dẫn đến giảm quá trình phân tích huyết mạch ở gan và hạ đường huyết dai. Các quan sát được thực hiện trong nghiên cứu này có nghĩa là ở chỗ nó có thể được khám phá thêm để sử dụng các thông tin này làm dấu ấn sinh học về sự phát triển chậm ở tôm.
Mối liên quan của phi sinh học và các yếu tố khác trong tăng trưởng không tối ưu.
Mặc dù xác định được một số tác nhân gây bệnh bao gồm vi rút, vi khuẩn và kí sinh trùng từ P. monodon bị ảnh hưởng bởi MSGS, nhưng tác nhân chính gây bệnh vẫn khó nắm bắt. Các nhà nghiên cứu cho rằng, một thông số môi trường cụ thể chịu trách nhiệm cho sự tăng trưởng chậm này, vì MSGS xuất hiện trên một phạm vi địa lý rộng.
Tăng trưởng chậm ở Penaeus vannamei
Mặc dù một loạt các yếu tố được cho là nguyên nhân gây ra bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và cơ quan biểu mô RDS ở P. vannamei, bao gồm việc sử dụng quá nhiều kháng sinh trong trại giống, bản chất của hậu ấu trùng có nguồn gốc từ tôm bố mẹ bị nuôi nhốt, bị cắt bỏ, điều kiện ao nuôi xấu đi do tích tụ các chất ô nhiễm không xác định, chất lượng thức ăn kém, yếu tố di truyền… Kalagayan & cs. (1991) chỉ ra rằng yếu tố chính gây ra RDS là IHHNV. Người ta nhận thấy rằng một trong những yếu tố quyết định mạnh mẽ nhất đến lợi nhuận là tốc độ tăng trưởng của tôm và giá trị thị trường. Do đó, các yếu tố có tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng, quy mô của động vật, giá trị thị trường sẽ ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận.
Những hiểu biết mới
Mặc dù đã có sự chú ý đáng kể đến các tác nhân gây bệnh do vi rút như WSSV và YHV trong hai thập kỷ rưỡi qua do tính chất độc hại và tỷ lệ tử vong đột ngột trên quy mô lớn, nhưng điều quan trọng không kém là phải chú ý đến các tình trạng tăng trưởng chậm kéo dài sẽ có khả năng ảnh hưởng đáng kể đến các chỉ số sản xuất trong ngành tôm.
Một cuộc kiểm tra quan trọng đối với nghiên cứu được thực hiện về các hội chứng tăng trưởng chậm này, không chỉ cho thấy tiềm năng đáng kể trong việc giải thích bằng chứng mâu thuẫn liên quan đến các quan sát cụ thể về hội chứng tăng trưởng chậm mà còn thiếu nhất quán trong các chẩn đoán liên quan được áp dụng khi cố gắng để xác định nguyên nhân.
Mặc dù phần lớn các nghiên cứu về MSGS (ở P. monodon) chỉ ra sự tham gia của nhiều tác nhân giống vi rút, đặc biệt là LSNV và các vi rút gan tụy như HPV hoặc MBV, nhưng vi rút gây bệnh duy nhất được đề xuất là nguyên nhân tiềm ẩn gây chậm sinh trưởng ở P. vanammei là IHHNV. Tuy nhiên, một tác nhân gây bệnh phổ biến được xác định ở cả hai loài tôm là vi bào tử trùng EHP.
Một quan sát nhất quán khác được thực hiện trong các trường hợp MSGS là sự hiện diện của các tổn thương do vi khuẩn và trong một số trường hợp nhất định, viêm huyết cầu rõ rệt và hình thành nốt đặc trưng của nhiễm vi khuẩn (tương tự như hoại tử gan tụy nhiễm trùng (SHPN) do Vibrio sp gây ra.
Vấn đề tăng trưởng chậm ở tôm thể hiện rõ ràng những hạn chế nghiêm trọng của phương pháp tiếp cận mầm bệnh đơn lẻ thông thường và sự cần thiết phải có phương pháp tiếp cận toàn diện hơn để đối phó với các tình trạng mãn tính. Nó cũng nhấn mạnh nhu cầu tìm kiếm xa hơn các mầm bệnh do vi rút và yêu cầu tiêu chuẩn bổ sung cho việc sàng lọc hậu ấu trùng dựa trên PCR với các quy trình đánh giá thông thường về tình trạng sức khỏe.
Ngọc Anh (Lược dịch)