Bài viết cung cấp nguyên nhân bệnh đen mang trên tôm và biện pháp điều trị.
1. Bệnh đen mang trên tôm sú, tôm thẻ
Nguyên nhân đen mang tôm:
– Bệnh đen mang là bệnh thường gặp ở tôm nuôi trong các ao nuôi có môi trường không tốt, mật độ nuôi dày. Môi trường nuôi bẩn có thể làm các mảnh vụn bám vào trong mang tôm làm cho mang tôm có màu đen.
– Tôm trong ao có hiện tượng bị đóng rong, các sinh vật bám như động vật đơn bào, vi khuẩn dạng sợi, tảo, nấm bám trên mang và bề mặt cơ thể của tôm. Các sinh vật này tạo điều kiện cho các chất vẩn hữu cơ bám và làm mang tôm chuyển màu.
– Khi mang tôm bị nhiễm vi khuẩn hay nhiễm nấm Fusarium này cũng làm xuất hiện các sắc tố melanin làm mang tôm có màu đen. Khi tôm nhiễm nấm Fusarium: Có thể thấy được sợi nấm khi soi tươi mang tôm bệnh bằng kính hiển vi. Các loài nấm thuộc giống Fusarium có trong nước ngọt, nước lợ và đất ở khắp nơi. Tất cả các loài tôm nuôi đều có thể bị nhiễm nấm. Tôm gần trưởng thành và trưởng thành thường bị nhiễm nặng. Tôm sú và tôm thẻ tương đối đề kháng được với nấm nhưng khi bệnh xảy ra rất khó điều trị.
– Tôm sống trong điều kiện pH thấp, có nhiều ion kim loại nặng như nhôm, sắt, muối của các kim loại này kết tụ trên mang của tôm làm nó chuyển màu đen.
– Nghiên cứu mới đây cho thấy tôm thẻ còn bị đen mang bởi một ký sinh trùng (Hyalophysa chattoni).
Triệu chứng:
– Mang và vùng mô nối mang với thân tôm có màu nâu hoặc đen. Khi nhiễm nặng các phụ bộ, chân và đuôi cũng bị đen.
– Tôm nổi đầu do thiếu ôxy, bơi lờ đờ trên mặt nước, dạt vào bờ.
– Tôm giảm ăn, chậm lớn và chết khi có thêm các tác nhân khác.
– Mang tôm bị vi khuẩn, nấm hoặc nguyên sinh động vật ký sinh phá hủy khi bệnh nặng.
Đen mang làm tăng số lần lột xác của tôm, sự lột xác giúp tôm loại bỏ các mang hư hại nhưng nhiễm trùng nhanh chóng trở lại và tiếp tục làm mang tôm bi đen. Đen mang làm tôm suy yếu nhanh chóng, tôm chậm tăng trưởng và có khả năng chịu đựng kém hơn(Frede và cộng sự, 2015).
Trị bệnh:
Khi có hiện tượng bệnh lý xuất hiện cần tìm hiểu xem tôm bị đen mang do nguyên nhân nào.
– Nếu đen mang do ao bị ô nhiễm: Trong ao có nhiều chất ô nhiễm hữu cơ do thức ăn dư thừa, tảo tàn, đáy ao có nhiều mùn bã hữu cơ, hàm lượng nitrit, nitrat, và các khí độc… cần cải thiện điều kiện môi trường bằng việc xi phong bùn đáy ao, dùng yucca hấp thụ khí độc sau đó sử dụng men vi sinh liều cao (việc này có 2 mục đính đó là phân hủy mùn bã và cạnh tranh với vi khuẩn có hại) đồng thời bổ sung vitamin C vào thức ăn.
– Nếu đen mang do vi khuẩn và nấm cần: sử dụng hóa chất diệt khuẩn tham khảo: Tiêu chí lựa chọn sát khuẩn trong nuôi tômcó thể sử dụng BKC để diệt khuẩn, iodine liều cao để diệt vi khuẩn và nấm sau 3 ngày cấy men vi sinh có lợi cho ao.
– Do pH nước thấp, trong nước nếu có nhiều ion kim loại nặng (nhôm, sắt) sử dụng vôi để tăng pH với liều 20kg/1000m3 nước, dùng Natri thiosulphate để hấp thụ các kim loại nặng.
Phòng bệnh:
– Tẩy dọn ao kỹ trước khi thả tôm. Nếu có thể nên thiết kế hố xiphong để gom bùn thải trong ao và định kỳ xiphong nền đáy.
– Lắng lọc kỹ nước trước khi cấp vào ao nuôi, dùng thuốc diệt cá để diệt vật chủ trung gian mang mần bệnh vào ao nuôi.
– Chọn mật độ nuôi phù hợp với tay nghề và kỹ thuật.
– Kiểm soát tảo trong ao, tránh tảo tàn đồng loạt (dùng đường, BKC…).
– Tăng cường sục khí để tăng hàm lượng ôxy nhằm phân hủy mùn bã hữu cơ và chất độc. Định kỳ dùng yucca để hấp thụ khí độc cho ao nuôi tôm và tăng liều yucca khi thời gian nuôi càng dài.
– Tránh dư thừa thức ăn, định kì dùng men vi sinh để giảm phân hủy các chất ô nhiễm hữu cơ trong ao, giữ đáy ao sạch.
– Bổ sung Vitamin C và men tiêu hóa vào thức ăn.
2. Bệnh đen mang trên tôm hùm
Đối với tôm hùm, bệnh có thể xuất hiện ở cả tôm con và tôm trưởng thành.
Triệu chứng:
– Mang tôm có những điểm đen, các tơ mang chuyển màu đen, nếu bệnh nặng sẽ thấy mang thối rữa toàn bộ.
– Thân tôm xuất hiện những đốm đen, mắt cũng có thể chuyển sang màu đen.
– Tôm bỏ ăn, hô hấp kém, nằm dưới đáy lồng và có thể chết hàng loạt.
Nguyên nhân:
– Do môi trường nước ô nhiễm, nồng độ khí độc NH3 và H2S trong môi trường cao làm cho sắc tố melanin phát triển tại các mô của mang bị phá hủy.
– Do nhiễm vi khuẩn dạng sợi Vibrio, nhiễm nấm Fusarium.
– Do ký sinh trùng sán lá đơn chủ (xuất hiện nhiều sau các cơn mưa).
Phòng ngừa:
– Kiểm tra chất lượng nước thường xuyên để xử lý kịp thời.
– Cho ăn thức ăn chất lượng tốt, kiểm tra và điều chỉnh lượng thức ăn hợp lý, không để thừa thức ăn làm ô nhiễm nước.
Xử lý:
– Treo những túi vải có chứa vôi ở giữa lồng tôm hoặc đặt ở những vùng đáy lồng nuôi bị ô nhiễm để diệt ký sinh trùng, nấm, vi khuẩn.
– Tắm cho tôm bằng formol hoặc sulfat đồng, thả nuôi ở một lồng khác.
– Dùng thuốc kháng sinh trộn vào thức ăn, chú ý dùng đúng loại thuốc, đúng liều lượng, đúng thời gian. Việc sử dụng kháng sinh chỉ có kết quả khi phát hiện bệnh sớm. Thời gian điều trị bằng kháng sinh từ: 5 – 7 ngày.
NIMDA TH
Nguồn: Tepbac