(Aquaculture.vn) – Kết quả nghiên cứu cho thấy chiết xuất từ tam thất (Panax notoginseng) giúp tăng cường các phản ứng miễn dịch, đồng thời duy trì hiệu suất tăng trưởng bằng cách điều chỉnh hoạt động của các enzyme tiêu hóa đường ruột của tôm thẻ chân trắng L. vannamei.
Tam thất (Panax notoginseng) thuộc họ Araliaceae và chi Panax, là một loại thảo dược thường được sử dụng trong các ứng dụng lâm sàng, có thể đóng vai trò là chất kích thích tăng trưởng, điều hòa miễn dịch và kháng khuẩn ở động vật thủy sinh do tác dụng tích cực của chúng trong việc cải thiện tốc độ tăng trưởng, khả năng miễn dịch và kháng bệnh. Hơn 200 hoạt chất như saponin, polyacetylenes, sterol, flavonoid, polysacarit, cyclopeptide và axit amin đã được xác định từ Panax notoginseng. Các nghiên cứu trước đây đã chứng minh rằng chiết xuất Panax notoginseng giúp tăng cường sự phát triển và khả năng chống oxy hóa của cá mú lai.
Tế bào máu đóng vai trò chính trong hệ thống miễn dịch của tôm, thực hiện các chức năng như thực bào, lưu trữ và phóng thích pro-phenoloxidase (proPO). Phenoloxidase (PO) chủ yếu được kích hoạt bởi hệ thống proPO, hệ thống sản xuất melanin có đặc tính diệt khuẩn, những đặc tính này thúc đẩy quá trình chữa lành vết thương bên ngoài và bảo vệ chống lại mầm bệnh.
Trong quá trình thực bào, các loại oxy phản ứng (ROS) được tạo ra gây bùng nổ hô hấp (RB) thúc đẩy quá trình thực bào và loại bỏ các vật thể lạ. Ngoài ra, các enzyme tiêu hóa như trypsin, amylase, lipase và chymotrypsin là một chỉ số quan trọng về quá trình tiêu hóa và hấp thu chất dinh dưỡng trong ruột tôm. Đây là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự tăng trưởng cũng như đề kháng của tôm.
Nghiên cứu đánh giá tác động của chiết xuất tam thất Panax notoginseng (PNWE) đối với các phản ứng miễn dịch và chức năng enzyme tiêu hóa của tôm thẻ chân trắng. Ngoài ra, nghiên cứu đánh giá hoạt động của các enzym tiêu hóa trong ruột và số lượng vi khuẩn Vibrio cũng như quan sát mô bệnh học của gan tụy và ruột.
Phương pháp nghiên cứu
Tôm thẻ chân trắng với trọng lượng trung bình là 3,8 ± 0,5 g (trung bình ± SD) nuôi trong bảy ngày và được cho ăn thức ăn công nghiệp (35% protein thô) 8% trọng lượng cơ thể và cho ăn 2 lần/ngày. Trong quá trình thử nghiệm, tôm thí nghiệm (60 con/nhóm) được nuôi trong bể chứa 200L nước biển ở độ mặn 15‰; nhiệt độ 24-26°C, pH ở mức 7,8-8.
Bột rễ tam thất được thêm vào nước vô trùng (100 g/L) và khuấy trong 24 giờ ở nhiệt độ phòng, hỗn hợp sau đó đem ly tâm. Thu phần nổi phía trên và lọc qua màng lọc 0,45μm. Dịch lọc bay hơi và sau đó làm khô đông lạnh tạo ra PNWE với hiệu suất 51,94%. Các mẫu PNWE được bảo quản ở −80°C.
Tôm trong nhóm thử nghiệm được tiêm với nồng độ khác nhau của chiết xuất tam thất (PNWE) (50, 100 và 200 μg/g tôm). Khoảng 20μL PNWE với nồng độ 9,5; 19 hoặc 38 mg/mL được tiêm vào phần bụng thứ hai hoặc thứ ba của tôm thẻ chân trắng, để đạt được liều tương ứng là 50, 100 và 200 μg/g trọng lượng cơ thể. Nhóm đối chứng, tôm được tiêm nước muối (20μL).
Tại mỗi thời điểm (12, 24, 48, 72, 168 và 240 giờ), 10 con tôm được thu thập ở mỗi nhóm để phân tích các thông số miễn dịch (hoạt động THC, SGC, GC, HC, PO và RB, PR và PI) và hoạt động của các enzyme tiêu hóa trong ruột (bao gồm trypsin, chymotrypsin, amylase và lipase) cũng như lượng vi khuẩn Vibrio trong ruột. Gan tụy và ruột được lấy mẫu sau 240 giờ để quan sát mô bệnh học.
Kết quả nghiên cứu
Dựa trên kết quả quan sát dưới kính hiển vi, không quan sát thấy biến dạng hoặc vỡ ở 240 giờ trong GC, SGC và HC của tôm được tiêm PNWE với các nồng độ khác nhau. THC của tôm được tiêm 100 và 200µg PNWE cao hơn đáng kể so với đối chứng sau 24-72 giờ ( p < 0,05); Từ 24-240 giờ, tỷ lệ phần trăm GC và SGC của tôm được tiêm các nồng độ PNWE khác nhau cao hơn đáng kể so với đối chứng (p < 0,05) trong khi tỷ lệ phần trăm HC thấp hơn đáng kể so với đối chứng (p < 0,05). Sự gia tăng lớn nhất về tỷ lệ GC được quan sát thấy ở tôm được tiêm 100 và 200 µg PNWE (Hình 1).
Từ 12-240 giờ, hoạt tính thực bào (RB) ở các nhóm được tiêm PNWE cao hơn đáng kể so với nhóm đối chứng ở các nồng độ khác nhau (p <0,05) . RB cao nhất được quan sát thấy ở tôm được tiêm 100 và 200µg PNWE sau 12-48 giờ. PR và PI của tôm được tiêm PNWE với các nồng độ khác nhau cao hơn đáng kể so với đối chứng (p <0,05) từ 12- 240 giờ. PI cao nhất trong nhóm được tiêm 100 và 200µg PNWE. Từ 12 – 240 giờ, hoạt tính PO của tôm được tiêm với các nồng độ PNWE khác nhau cao hơn đáng kể so với đối chứng (Hình 2).
Hoạt tính trypsin của tôm được tiêm PNWE cao hơn so với tôm đối chứng (p<0,05) với nhóm 50 và 100µg/g tôm có hoạt tính cao nhất nhất từ 12-48 giờ. Từ 12-24 giờ, hoạt tính chymotrypsin của tôm được tiêm PNWE cao hơn đáng kể so với đối chứng với nhóm 50 µg/g tôm là cao nhất. Từ 12-24 giờ, hoạt động amylase của tôm được tiêm PNWE cao hơn đáng kể so với đối chứng (p<0,05) với 50 µg PNWE lúc 12 giờ là cao nhất. Từ 12-24 giờ, hoạt tính lipase của tôm được tiêm 50 µg PNWE cao hơn đáng kể so với đối chứng (p<0,05).
Sau 48 giờ, số lượng vi khuẩn Vibrio trong ruột của tôm được tiêm 100 và 200 µg/g tôm PNWE thấp hơn đáng kể so với đối chứng (p < 0,05).
Kết luận
Chiết xuất từ Panax notoginseng giúp tăng cường các phản ứng miễn dịch của tôm thẻ chân trắng bằng cách tăng HC, PO, RB và hoạt động thực bào, đồng thời duy trì hiệu suất tăng trưởng nhờ việc điều chỉnh hoạt động của các enzyme tiêu hóa đường ruột (trypsin, chymotrypsin, amylase và lipase). PNWE là một chất điều hòa miễn dịch đầy hứa hẹn cho tôm với tiềm năng tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững của ngành nuôi trồng thủy sản trong tương lai.
Thu Hiền (Lược dịch)