Rươi được xem là vị thuốc quý bởi nó có khả năng hỗ trợ điều trị nhiều căn bệnh hiệu quả. Ngoài ra, nhờ rươi có vị cay, mùi thơm, tính ấm nên có thể dùng để điều trị đau nhức xương khớp, kích thích vị giác, giúp cải thiện tình trạng biếng ăn, ăn không ngon miệng. Không những vậy, rươi giàu đạm và chất béo nên với người có thể trạng gầy có thể ăn rươi với lượng phù hợp để tăng cân và tăng sức đề kháng trong cơ thể.
1. Chọn điểm và chuẩn bị công trình nuôi Rươi
– Đầm (ruộng) nuôi Rươi phải nằm ở các vùng nước lợ ven cửa sông, có nước thủy triều ra vào. Không bị ảnh hưởng từ nguồn nước thải sinh hoạt hoặc các khu công nghiệp; không có nguồn nước ngọt đổ trực tiếp vào đầm (ruộng) nuôi rươi.
– Hệ thống kênh, mương tốt nhất là riêng biệt, chủ động điều tiết nước. Nguồn nước cấp vào cần đảm bảo yêu cầu sau: pH = 7-8; Hàm lượng oxy hòa tan: 5-6 mg/l; Ðộ kiềm: 80-120 mg CaC03/l; NH3 < 0,l mg/l; Ðộ mặn: từ 0-5 ‰, Ðộ trong > 10cm; Nhiệt độ: 25-31 0C.
– Đáy đầm là bùn cát, trong đó bùn chiếm 7 phần và cát là 3 phần.
2. Chuẩn bị công trình nuôi.
2.1. Thiết kế đầm ruộng nuôi
– Đầm (ruộng) nuôi Rươi có diện tích tối thiểu 2.000m2 có bờ bao và cao hơn mực nước đầm 30 – 50cm. Đáy đầm (ruộng) bằng phẳng, hơi dốc về phía cống thu hoạch đảm bảo khi tháo phải kiệt nước. Nên thiết kế một mương nhỏ trong đầm giúp cho việc thoát nước được thuận lợi
2.2 Thiết kế cống cấp và thoát nước.
– Cống lấy nước: Cống lấy nước được thiết kế là cống xây gạch hoặc bằng ống nhựa như ở các đầm nuôi tôm, ao nuôi cá. Khẩu độ cống được tính toán cho phù hợp với diện tích để lấy nước kịp thời gian.
– Cống thu hoạch: Cống thu hoạch gồm các phần chính như: Miệng cống; thân cống; đáy cống; cánh phai…
+ Miệng cống: Hướng vào trong đầm nuôi, là nơi mắc lưới xăm thu hoạch.
+ Thân cống: Là nơi thu hoạch nên phần thân cống phải đủ dài để đảm bảo dòng nước qua đây không bị chảy quá siết gây dập, vỡ Rươi khi thu hoạch.
+ Ðáy cống: Mặt thấp hơn mặt đầm (ruộng) nuôi Rươi khoảng 20 cm, đảm bảo khi nước xuống là đáy đầm (ruộng) phải cạn khô.
+ Cánh phai: Gồm nhiều cánh phai bằng ván gỗ để điều chỉnh lưu lượng nước qua cống.
3. Cải tạo đầm, ruộng nuôi.
– Cải tạo đầm (ruộng) vào những ngày con nước kém để tránh nước đục chảy ra mang theo bùn bã hữu cơ (thức ăn của Rươi). Phương pháp cải tạo gồm các bước sau:
+ Tháo cạn nước, bắt hết các loại cá, tôm, cua cáy…. là địch hại của Rươi.
+ Phát quang bờ bụi xung quanh, dọn bớt các bụi cỏ dưới đáy.
+ Kiểm tra và tu sửa cống cấp và thoát nước.
+ Xúc tạp: Sục bùn hoặc cày bừa ở đáy đầm khoảng 20cm, loại bỏ rác, thân cây…chưa phân hủy (gốc rạ phải để làm tơi xốp đất), lấp chỗ trũng, làm rãnh hướng ra cống; cấp nước vào đầm phải có lưới lọc để loại bỏ địch hại từ bên ngoài vào; thau rửa đấy dầm bằng cách cấp nước vào rồi tháo cạn từ 3-4 lần.
– Kiểm tra pH, nếu pH<6,5 thì bón thêm vôi nông nghiệp với lượng từ 7-10kg/100m2
– Dùng phân hữu cơ (phân trâu, bò, gà) đã ủ hoại mục với chế phẩm vi sinh, lượng 500-600kg/ha bón lót để tăng thêm nguồn thức ăn cho Rươi.
Dùng chế phẩm sinh học Emuniv trộn đều với cám gạo rắc đều trên mặt ruộng để phân huỷ rơm, rạ; Phân chuồng ủ mục được rải đều, sau đó dùng máy lồng để trộn lẫn vào nền đáy. Có thể tận dụng bèo tây và một số loại cỏ, cói, các cây thân mềm dập vùi vào đất làm đất tơi xốp, tạo mùn bã hữu cơ làm thức ăn cho Rươi
4. Cấy lúa, chọn giống và thả rươi giống.
4.1. Cấy lúa
Sau khi cải tạo đầm (ruộng) xong tiến hành cấy lúa vừa để tăng thu nhập, vừa để tạo sinh cảnh cho Rươi và giảm được nhiệt độ nước trong những ngày nắng nóng. Trồng lúa theo phương thức hữu cơ, không sử dụng phân vô cơ, hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật.
– Giống lúa: Chọn giống có khả năng chịu ngập, mặn, có khả năng kháng sâu bệnh như J02, ST25…
Mùa vụ: Cấy lúa vào vụ Xuân, áp dụng quy trình kỹ thuật cấy mật độ thưa, mô hình trồng lúa hữu cơ không xung đột với kỹ thuật chăm sóc Rươi (theo hướng dẫn của cơ quan chuyên môn).
4.2 .Thu và thả Rươi giống
– Lấy giống tự nhiên: Chọn thời điểm lấy giống vào kỳ nước cường.Một năm có thể lấy giống tự nhiên vào 2 vụ: Vụ hè vào tháng 4-5 (âm lịch) và thu đông vào tháng 9-12 (âm lịch); Mở cống lấy nước vào đầm, ấu trùng Rươi sẽ theo nước và vùi xuống lớp bùn trong đầm. Sau khi thủy triều rút khoảng 4-6 giờ thì tháo nước ra (luôn giữ lại mực nước trong đầm từ 30-40cm); việc lấy giống có thể diễn ra nhiều ngày vào kỳ nước cường.
– Thả giống nhân tạo: Lựa chọn cơ sở cung cấp giống uy tín, có các chỉ số môi trường tương đồng với môi trường ao đầm thả giống. Rươi giống đang ở giai đoạn trôi nổi (Metachophora), thả giống vào cống cấp nước khi thủy triều lên, hoặc có thể cho vào chậu hoặc thùng xốp, cho thêm nước rồi té đều mặt đầm (ruộng). Tùy vào lượng giống lấy được ở tự nhiên mà bổ sung thêm nhiều hay ít, mật độ đảm bảo 100-150 con/m2.
– Mùa vụ thả giống:Thả giống nhân tạo vào vụ chiêm sau khi thu giống tự nhiên hoặc có thể thả quanh năm.
– Thả giống vào sáng sớm hoặc chiều tối, lúc trời mát. Mực nước thả giống từ 40-50cm, giữ nước trong đầm (ruộng) sau khi thả từ 4-7 ngày để ấu trùng Rươi phân tán và chui xuống lớp bùn đáy. Trước khi thả, ngâm túi ni lông vào môi trường nước 5-10 phút để cân bằng nhiệt độ rồi mở túi ra từ từ cho rươi bơi ra ngoài.
5. Chăm sóc và quản lý
5.1. Chăm sóc lúa
Phương pháp bón phân như sau:
+ Bón lót: 0,6 tấn phân hữu cơ /ha trước khi bừa cấy.
+ Bón thúc lần 1 (sau cấy 7-10 ngày): Khi lúa bắt đầu đẻ nhánh, bón 0,4 tấn phân hữu cơ /ha.
5.2. Chăm sóc Rươi
– Định kỳ 2 lần/tháng vào kỳ con nước, lấy nước ra vào đầm (duy trì mực nước trong đầm từ 20-40cm) tăng nguồn thức ăn cho Rươi (phù sa và tảo có trong nước). Khi lấy nước nên dùng lưới để ngăn địch hại vào đầm (ruộng), kiểm tra độ mặn (đảm bảo ≤ 5o/oo).
– Kiểm tra hàng ngày đối với các chỉ tiêu môi trường, duy trì pH 7,5 – 8,5, oxy hòa tan > 5 mg/lít , buổi tối bắt các loại cua, còng, cáy là địch hại của rươi.
– Chăm sóc hoàn toàn tự nhiên, không sử dụng thuốc hóa học, thuốc trừ sâu, tạo môi trường trú ẩn tốt nhất cho Rươi. Hạn chế lấy nước vào thời điểm nước sông ô nhiễm, thời kỳ phun thuốc trừ sâu tập trung.
– Bổ sung thức ăn: thức ăn bao gồm phân trâu, bò, gà đã ủ mục, cám ngô, cám gạo,bột đậu tương (lưu ý: nếu sử dụng phân gà cần phải đánh đống ủ trên 6 tháng để loại bỏ tồn dư kháng sinh)
6. Thu hoạch
– Thu hoạch lúa: Nên gặt bằng liềm, sau khi thu lúa xong nên để cho gốc rạ khô, mục rồi cày úp xuống làm phân bón cho đầm (ruộng) cung cấp dinh dưỡng , thức ăn cho rươi. Tránh cày lúc gốc rạ còn tươi sẽ làm thối nước gây hại cho rươi.
– Thu hoạch Rươi: Trước thời điểm xác định thu hoạch (trong 3 ngày triều cường) thì phơi bãi từ 5-7 ngày để Rươi có điều kiện thành thục. Trong quá trình phơi bãi có thể bắt cá và các địch hại khác ăn thịt hoặc gây hại cho rươi, dọn dẹp bờ ao để địch hại không có chỗ lẩn trốn.
Thu hoạch Rươi bằng cách: Vào kỳ nước cường, lấy nước vào đầm (ruộng) ở mức cao nhất có thể, lúc này, Rươi thành thục sẽ bị kích thích đứt đoạn và nổi lên trên mặt nước rồi bơi ra hướng cống thu hoạch để di cư sinh sản. Tại đây, Rươi sẽ được thu trong đáy lưới (mắt lưới đáy từ 1-3 mm). Quá trình thu Rươi cần thao tác nhẹ nhàng, nhấc túi đáy đổ Rươi ra chậu xuất bán hoặc chuyển vào khay xốp giữ lạnh bảo quản Rươi sống (từ 5- 7 ngày) để vận chuyển đi xa.