Sò (sò lông, sò huyết) là động vật thân mềm vừa có giá trị dinh dưỡng và giá trị kinh tế. Sò còn là đối tượng có khả năng cải tạo chất lượng nước tốt, nước thải ao nuôi tôm, cá có thể dùng để nuôi sò hoặc nuôi sò trong ao chứa để lọc nước trước khi đưa vào ao tôm.
- Chọn bãi nuôi
Bãi nuôi là những nơi ít sóng gió, gần cửa sông. Chất đáy tốt nhất là bùn mềm pha lẫn cát mịn. Khu vực bãi nuôi phải nhiều thức ăn, nước tốt.
- Chuẩn bị bãi nuôi
Bãi nuôi sò được san bằng phẳng, vệ sinh mặt bãi. Bãi rộng cần chia thành từng ô để tiện chăm sóc, theo dõi, thu hoạch. Xung quanh bãi nên chắn đăng hoặc lưới để ngăn địch hại và ngăn sò đi
. Trong trường hợp nuôi sò trong ao, đầm thì phải đảm bảo một số điều kiện như sau:
– Bờ bao có độ cao thích hợp tùy theo cao trình của vùng đất và biên độ thủy triều.
– Mương: gồm mương bao và mương chính để dẫn nước và thoát nước. Kích thước mương phụ thuộc vào diện tích của đầm.
– Bãi sò: Đây là nơi sinh sống của sò, cần phải phẳng, cao trình bãi đảm bảo thấp để có thể điều tiết nước theo thủy triều.
– Cống: Dùng để điều chỉnh lượng nước. Tùy theo diện tích của đầm mà xây dựng cống có khẩu độ và số lượng đầy đủ.
– Bờ cản: Với những đầm có diện tích lớn, dòng chảy mạnh thì cần có bờ cản để hạn chế tác động của dòng chảy mạnh vào bãi sinh sống của sò.
- Lấy giống tự nhiên
– Lấy giống lúc bãi cạn: khi triều xuống lộ mặt bãi, cào lớp bùn trên mặt sau đó đãi để lấy sò giống. Mỗi lần lấy giống xong phải san lại mặt bãi cho bằng phẳng.
– Lấy giống lúc bãi ngập nước: cách lấy giống này qui mô hơn, thường tiến hành vào những ngày yên sóng hoặc lúc triều bắt đầu xuống nhưng nước còn ngập bãi. Dụng cụ gồm thuyền máy có lưới cào hoặc dùng cào tay để thu giống.
– Vận chuyển giống: bằng phương pháp giữ ẩm, thời gian vận chuyển là 2 – 3 ngày tùy theo điều kiện thời tiết. Ở nhiệt độ thấp, thời gian cho phép để vận chuyển lâu hơn và tỉ lệ sống cao hơn. Trong quá trình vận chuyển nên thường xuyên tưới nước biển giữ ẩm cho sò, tránh mưa, nắng.
- Thả giống
Sò giống tốt thường có màu trắng hồng, sạch sẽ, không lẫn tạp chất, rác, địch hại. Không thả giống khi con giống có dấu hiệu chết. Thả giống khi nước còn ngập bãi 10 – 15 cm để sò có thời gian chui xuống bùn ẩn nấp. Có thể dùng thuyền đi trên bãi rải giống đều khắp mặt bãi. Lượng giống thả khoảng 7.000 – 22.000 con/m2 (cỡ giống 20.000 – 60.000 con/kg). Tránh xuống giống nước chảy mạnh làm sò giống bị cuốn trôi theo dòng nước.
- Chăm sóc và thu hoạch
a. Chăm sóc:
Trong quá trình nuôi cần chú ý sự thay đổi của các yếu tố môi trường, nhất là nồng độ muối. Vào mùa mưa, các vùng gần cửa sông nồng độ muối thường giảm đột ngột ảnh hưởng đến sinh trưởng và tỉ lệ sống của sò.
– Theo dõi màu sắc mặt bãi nuôi: Màu sắc của bãi nuôi và sự sinh trưởng của sò có liên quan theo một qui luật. Mặt bãi màu đen hoặc hơi nâu sẽ có nhiều sinh vật làm thức ăn cho sò, sò sinh trưởng nhanh. Mặt bãi màu xanh hoặc vàng chứng tỏ các loại tảo đáy mọc dày, không có lợi cho sò, sò chậm lớn. Mặt bãi màu trắng chứng tỏ có sóng lớn cuối trôi bùn ra khỏi bãi.
– Nên thường xuyên kiểm tra bãi sò, các hệ thống lưới, đăng chắn, bờ bao, cống… để kịp thời sửa chữa. Kiểm tra điều kiện môi trường, tình trạng bãi nuôi nhằm hạn chế những bất lợi cho hoạt động sống của sò. Trong quá trình nuôi nên định kỳ cào sò xung quanh lưới chắn để san thưa vì sò thường tập trung xung quanh lưới chắn. Việc cào sò để san thưa cũng giúp tiêu diệt địch hại, cân bằng mật độ, giúp sò mau lớn hơn.
b. Thu hoạch
Sau thời gian nuôi 1 năm có thể thu hoạch, cỡ phổ biến là 40 – 60 con/kg. Dùng cào tay hoặc cào máy để thu hoạch và vận chuyển đến nơi tiêu thụ. Thu hoạch có thể tiến hành quanh năm tùy theo thị trường, nhưng tốt nhất nên vào thời điểm sò thành thục sinh dục vì giai đoạn này sò béo, đạt tối đa cả về khối lượng và chất lượng.
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia