Thứ Sáu, 13/10/2023, 8:00

EHP: Những điều cần biết

Gan tụy của tôm là cơ quan đích của EHP

(Aquaculture.vn) Nghiên cứu dưới đây sẽ tóm tắt những thông tin liên quan đến vòng đời của bào tử Enterocytozoon hepatopenae (EHP). Nghiên cứu phác thảo những hiểu biết hiện tại về sự lây nhiễm và động lực lây truyền của EHP, cũng như các chiến lược kiểm soát được khuyến cáo hiện đang được sử dụng để hạn chế ảnh hưởng của EHP đối với nghề nuôi tôm.

Gan tụy của tôm là cơ quan đích của EHP
Gan tụy của tôm là cơ quan đích của EHP

Bệnh Microsporidiosis gan tụy (HPM)

Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra bệnh Microsporidiosis gan tụy (HPM) được phát hiện tại Thái Lan vào năm 2004 do một loại vi bào tử trùng không xác định gây chậm lớn trên tôm sú. Đến năm 2009, bệnh được xác định và mô tả chi tiết bởi nghiên cứu của Tourtip & cs. (2009). Bào tử EHP có kích thước khoảng 1μm gây bệnh đến cả tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Các bào tử EHP có khả năng truyền trực tiếp và ngay lập tức từ tôm này sang tôm khác thông qua hoạt động ăn đồng loại và sống chung (Walker & Winton, 2010). EHP chỉ giới hạn ở các tế bào biểu mô ống gan tụy tôm (HP) và chỉ gây chậm phát triển (Tang & cs., 2007).

Microsporidia

Microsporidia là ký sinh trùng nội bào hình thành bào tử có thể lây nhiễm cho cả động vật có xương sống và động vật không xương sống. Ống cực có trong bào tử được sử dụng để xâm nhập vào tế bào chủ là một đặc điểm phân biệt của microsporidia (Thitamadee & cs., 2016). Ký sinh trùng phát triển trong tế bào chất của tế bào chủ thông qua quá trình tăng sinh nhân và sản sinh bào tử (Sporogony). Không thể phát hiện nhiễm EHP bằng kiểm tra trực quan trên tôm vì không có triệu chứng rõ ràng, ngoại trừ chậm lớn và hội chứng Phân trắng (Tourtip & cs., 2009). Ngoài ra, gan tụy của tôm là cơ quan đích của EHP.

Sinh vật học

Trong hầu hết các trường hợp, sự nảy mầm của bào tử được kích hoạt bởi tác nhân môi trường thay đổi theo loài và môi trường sống. Những thay đổi về pH, độ thẩm thấu, mất nước, sự hiện diện của anion hoặc cation, tiếp xúc với bức xạ UV là tất cả các tác động về kích thích vật lý và hóa học có thể khiến bào tử nảy mầm trong ống nghiệm.

Quá trình nảy mầm của bào tử bắt đầu với sự trương nở nói chung của bào tử, sau đó là sự trương nở chuyên biệt của thể Gan tụy của tôm là cơ quan đích của EHP cực và không bào phía sau, làm tăng áp suất thẩm thấu của bào tử. Đĩa neo bị vỡ và sợi cực được phóng ra ngoài qua quá trình lộn ngược do áp suất bên trong của bào tử và màng bào tử bị vỡ (Stentiford & cs., 2013). Chiều dài của ống cực phóng điện có thể nằm trong khoảng từ 50 đến 500µm. Trong vòng chưa đầy hai giây, quá trình nảy mầm diễn ra. Ống phóng điện có thể tác động và làm thủng màng của tế bào vật chủ tiềm năng nếu nó ở gần. Do áp suất không đổi bên trong bào tử, bào tử chất được đẩy xuống ống cực sau khi hoàn toàn trống rỗng (Watson & cs., 2015). Nếu một ống phân cực xâm nhập vào tế bào chủ, thì bào tử của ký sinh trùng sẽ thoát ra khỏi ống và xâm nhập vào tế bào chất của vật chủ, lây nhiễm cho vật chủ mà vật chủ không nhận ra ký sinh trùng là kẻ xâm nhập ngoại lai (Hình 1).

Hình 1: Sự nảy mầm của bào tử EHP trong tế bào gan tụy
Hình 1: Sự nảy mầm của bào tử EHP trong tế bào gan tụy

Vòng đời

Microsporidia có ba giai đoạn trong vòng đời: lây nhiễm, tăng sinh và phát sinh bào tử. Ký sinh trùng được gọi là meront sau khi xâm nhập vào tế bào vật chủ, trải qua giai đoạn phát triển và phân chia với rất nhiều biến đổi giữa các loài. Ký sinh trùng thường được bao quanh bởi các bào quan của vật chủ như lưới nội chất (ER), nhân hoặc ty thể (Arunrut & cs., 2016). Các tế bào vật chủ cũng có thể thay đổi hình dạng và kích thước, thường phát triển do hậu quả của xenoma ký sinh trùng microsporidian. Kết quả, tế bào chủ mở rộng và trải qua nhiều vòng phân chia nhân, dẫn đến một plasmodium khổng lồ chứa đầy ký sinh trùng, với các bào tử trưởng thành ở lõi và các giai đoạn trước đó lan ra ngoài tế bào xenoma (Aldama-Cano & cs., 2018).

Sự phân tách của các nhân ngoại giao đánh dấu sự khởi đầu của thể bào tử ở một số loài, trong khi giảm phân đánh dấu sự khởi đầu của thể bào tử ở những loài khác. Giai đoạn của vòng đời được đánh dấu bằng số lượng bào tử nguyên bào có thể thay đổi từ hai (lưỡng bào) đến nhiều (đa bào tử) như trong Hình 2. Bộ máy đùn bào tử bắt đầu hình thành sau khi phân chia tế bào. Kích thước của các tế bào thu nhỏ lại và lớp nội bào tử chitin phát triển khi cơ chế ép đùn gần hoàn thiện và các nguyên bào tử sắp trưởng thành (Edelaar & Bolnick, 2019). Các bào tử của EHP có hình trứng và có 5–6 sợi cực nhìn thấy được. Các bào tử trưởng thành bị trục xuất sau khi quá trình này hoàn tất. Các bào tử EHP được tôm đưa vào nước ao thông qua phân, nơi chúng có thể lây nhiễm sang các loài khác.

Vòng đời của bào tử EHP
Hình 2: Vòng đời của bào tử EHP

Quá trình lây truyền

Độc lực của ký sinh trùng microsporidian phần lớn được quyết định bởi cơ chế lây truyền. Sự lan truyền theo chiều ngang phụ thuộc vào một số lượng lớn các ký sinh trùng có thể tiếp cận được (đặc biệt là khi các bào tử được đưa vào nước), điều này dẫn đến sự sinh sôi nảy nở của ký sinh trùng và độc lực được lựa chọn để truyền theo chiều dọc, mặt khác, đòi hỏi phải có sự sinh sản của vật chủ và do đó làm giảm độc lực (Karthikeyan & Sudhakaran, 2020). EHP dễ dàng lây lan khi tôm sống chung và ăn thịt đồng loại nhiễm bệnh (Hình 3). Đường lây truyền dọc của EHP được đánh giá là kém. Cho đến nay, không có vật chủ thứ cấp nào được xác định là có liên quan đến việc lây truyền EHP (Jithendran & cs., 2019).

Đường lây truyền của bào tử EHP
Hình 3: Đường lây truyền của bào tử EHP

Kết luận và hướng nghiên cứu trong tương lai

EHP đã phát triển thành một trong những bệnh ký sinh trùng nguy nhiểm nhất ở châu Á đối với tôm thẻ chân trắng. Nó có thể gây ra các bệnh nghiêm trọng dẫn đến tôm chậm phát triển. Cũng như các bệnh tôm khác, chính vì vậy phòng ngừa là biện pháp tốt nhất chống lại EHP.

Dựa trên các vấn đề chính được nêu ra trong nghiên cứu này nhằm giảm tần suất nhiễm EHP trong các hệ thống nuôi tôm, nghiên cứu này đã phác thảo đề xuất một số biện pháp sau đây:

  • Không cho ăn thức ăn sống hoặc nếu sử dụng chúng nên thanh trùng hoặc đông lạnh trong 48 giờ ở 20°C để tiêu diệt các bào tử EHP ở giai đoạn lây nhiễm.
  • Để giảm nguy cơ nhiễm bệnh qua phân, nên bỏ đói tôm bố mẹ từ 4–6 giờ trước khi chuyển sang bể đẻ.
  • Để diệt trừ EHP ở các giai đoạn sống có thể đã phát triển từ phân của tôm bố mẹ trong bể đẻ, trứng hoặc ấu trùng cần được rửa kỹ bằng nước sạch của trại giống trước giai đoạn N6.
  • Trước khi thả giống (đặc biệt là những ao đã nhiễm EHP trước đó), nên xử lý vôi nhanh (CaO) để kích thích sự nảy mầm và vô hiệu hóa bào tử, giảm áp lực lây nhiễm.
  • Sau khi thả giống PL âm tính với EHP, tôm trong ao nên được kiểm tra và xét nghiệm EHP thường xuyên bằng các phương pháp phân tử.
  • Nếu việc lấy mẫu ao khẳng định phát hiện sớm EHP thì cần thay đổi cách quản lý ao để giảm lây lan theo chiều ngang.

Ngọc Anh (Lược dịch)

Theo Bulletin of Pure & Applied Sciences – Zoology