Chùm ngây (Moringa oleifera) cho thấy nhiều ứng dụng trong nuôi trồng thủy sản như hoạt động chống virus, hiệu quả kháng khuẩn, kích thích tăng trưởng như nguồn protein thay thế bột cá cho động vật thủy sản.
Thành phần hoạt chất trong chùm ngây
Hạt chùm ngây trung bình chứa 40% trọng lượng là dầu, thành phần axit béo trong đó là tương tự như dầu ô liu và có thể được sử dụng cho cả hai mục đích ẩm thực và công nghiệp. Dầu hạt chứa 9,3% palmitic, 7,4% stearic, 8,6% behenic và 65,7% axit oleic trong số các axit béo. Myristic và axit lignoceric cũng đã được báo cáo. Ngoài hàm lượng dinh dưỡng đa lượng cao, lá chùm ngây và hạt cũng rất giàu vitamin và khoáng chất. Lá (100g) chứa 440 mg Ca, 70 mg P, 7 mg Fe, 110 mg Cu, 5,1 mg I, 11.300 IU pro-vitamin A, 120 mg vitamin B, 0,8 mg axit nicotinic, 220 mg axit ascorbic và 7,4 mg tocopherol trên 100 g. Trên 100 g vỏ được báo cáo chứa 30 mg Ca, 110 mg P, 5,3 mg Fe, 184 IU provitamin A, 0,2 mg niacin, 120 mg axit ascorbic, 310 mg Cu và 1,8 mg I. Lá chùm ngây có hàm lượng protein thực vật cao (23%), sự hiện diện đủ mức độ cần thiết axit amin và hàm lượng chất kháng dinh dưỡng thấp so với chất lượng dinh dưỡng cao của chúng.
Chùm ngây đã được sử dụng rộng rãi như nguồn protein thực vật, như một sự thay thế một phần hoặc hoàn toàn bột cá trong chế độ ăn trong thức ăn thủy sản. Nó được mọi người biết đến với cái tên “cây thần kỳ” vì giá trị dinh dưỡng cao và thành phần độc đáo của các chất phytochemical như axit phenolic, flavonoid, carotenoid, alkaloid, tannin, lectin và terpenoit. Những chất phytochemical này có nhiều đặc tính như chống oxy hóa, bảo vệ gan, kháng khuẩn và kích thích hệ miễn dịch.
Công dụng của chùm ngây trong thủy sản
Chùm ngây cho thấy đặc tính kháng khuẩn tốt chống lại nhiều mầm bệnh bao gồm vi khuẩn Gram âm và vi khuẩn Gram dương, như Aeromonas hydrophila, Pseudomonas fluorescens, Edwardsiella tarda, Staphylococcus aureus, Escherichia coli, Bacillus sp., P. aeruginosa, Corynebacterium sp., Acinetobacter sp…
Các đặc điểm dinh dưỡng của lá chùm ngây trong khẩu phần ăn của một số loài cá. Nó cũng đánh giá tác động tích cực đến các thông số tăng trưởng, chỉ số sử dụng thức ăn và thành phần cơ thể của cá. Các thông số sinh hóa-máu, chức năng gan-thận, phản ứng miễn dịch và khả năng chống oxy hóa của cá ăn chế độ ăn dựa trên bổ sung chùm ngây cũng được đánh giá hiệu quả.
Việc sử dụng vỏ hạt và vỏ quả như các chất kháng khuẩn hoặc như một loại cây thuốc đã được báo cáo trên tôm, cụ thể chúng được tìm thấy bảo vệ khỏi vi khuẩn Vibrio sp. gây bệnh. Cũng có bằng chứng cho hoạt động diệt vi khuẩn lam của dịch lọc từ hạt chùm ngây nghiền nát mà một chất ức chế protease đã phân lập được.
Một nghiên cứu được thực hiện để tìm ra tác dụng của lá chùm ngây và hạt như một thức ăn bổ sung về năng suất sinh trưởng của cá rô phi toàn đực. Cụ thể, xác định ảnh hưởng của thức ăn bổ sung (lá + thức ăn bình thường, hạt + thức ăn bình thường, lá + hạt + thức ăn bình thường) trên tất cả cá rô phi đực đánh giá về chiều dài và trọng lượng. Kết quả cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa các nghiệm thức (thức ăn bình thường, lá + thức ăn bình thường, hạt + thức ăn bình thường, lá + hạt + thức ăn bình thường) được sử dụng trên các thông số đo được (trung bình: chiều dài tiêu chuẩn, tổng chiều dài, chiều rộng tiêu chuẩn, tổng chiều rộng và trọng lượng) tại (p <0,05). Kết quả đã chứng minh rõ ràng rằng hạt ghi nhận cao hơn (tốt nhất tăng trưởng) hiệu suất xét về các thông số được đo lường hơn tất cả các phương pháp xử lý khác. Tiếp theo là kết hợp hạt và lá với thức ăn bình thường chỉ ghi lại hiệu suất kém nhất.
Hạt chùm ngây cũng đã được chứng minh cho mục đích xử lý nước do đặc tính keo tụ tốt, giá thành rẻ và không độc hại. Bên cạnh đó chúng cũng được nghiên cứu để sử dụng cho công nghệ thu hoạch vi tảo. Các dẫn xuất của hạt chùm ngây được xác định để thu hoạch vi tảo nước ngọt (Chlorella sp.). Kết quả của nghiên cứu này đã chứng minh rằng các dẫn xuất chùm ngây sơ cấp và bậc ba mang lại hiệu suất keo tụ hơn 95% sau 20 phút.
Như vậy, chùm ngây là một loài thực vật có giá trị có thể được sử dụng để phát triển nuôi trồng thủy sản bền vững có thể sử dụng trên cả cá và tôm.