Thứ Tư, 13/12/2023, 13:00

Bệnh lymphocystis ở cá biển nuôi lồng và biện pháp phòng bệnh

 Đây là một trong những bệnh nguy hiểm do virus gây ra ở cá biển, nhất là đối với cá biển nuôi lồng vào mùa có nhiệt độ thấp ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Ở nước ta, nghề nuôi cá biển còn ở quy mô nhỏ lẻ, người nuôi thường chưa áp dụng đúng các biện pháp phòng trừ, khi cá nhiễm bệnh thường chữa trị rất khó, dẫn đến cá gầy yếu, chết rải rác làm giảm năng suất và giá trị thương phẩm, gây thiệt hại lớn trong sản xuất.

Hình dạng ngoài của cá bị bệnh lymphocystis

1.Tác nhân gây bệnh: Do virus Iridovirus (có dạng hình cầu, kích thước từ 130 – 330 nm) gây ra. Virus Iridovirus nhiễm trong nguyên bào da (các tế bào lympho) cá có cấu trúc đối xứng hình sáu cạnh.

2. Dấu hiệu bệnh lý: Cá kém ăn, chậm lớn, chết rải rác; trên bề mặt cơ thể (vây, đầu, mũi, miệng, bụng, lưng) xuất hiện các u lồi hình dạng bất thường, màu trắng, xám hay hồng, lớn hoặc nhỏ. Tế bào lympho ngoại biên bị trương to, kích thước đạt tới 100 μm – 1 mm, tế bào tăng từ 50.000 – 100.000 lần về thể tích; tế bào có màng trong suốt. Khi giải phẫu cá bệnh thấy xuất hiện một số tế bào lympho nhiễm virus ở trong cơ, màng bụng (phúc mạc) và trên bề mặt của các cơ quan nội tạng.

3. Đặc điểm phân bố và lan truyền của bệnh: Cá sống tự nhiên có mức độ cảm nhiễm bệnh thấp và không gây nguy hiểm. Nhưng đối với nuôi tăng sản cá biển trong lồng, bè, nhất là thói quen sử dụng cá tạp làm thức ăn cho cá nuôi khiến cá càng dễ bị nhiễm bệnh lymphocystic. Hầu hết các loài cá biển đều bị cảm nhiễm: cá chẽm (Lates calcarifer), cá giò (Rachycententron canadum), cá hồng (Lutjanus spp) …

4. Biện pháp phòng bệnh: Ở một số nước như Scotlan, Mỹ đã có các nghiên cứu về đáp ứng miễn dịch của bệnh, nhưng chưa sản xuất được vắc-xin thích hợp để phòng bệnh cho cá. Biện pháp tốt nhất là áp dụng phòng bệnh tổng hợp.

– Nguồn giống: lựa chọn cá giống âm tính với virus Iridovirus, cá giống có nguồn gốc từ đàn cá bố mẹ không nhiễm bệnh lymphocystis do vi – rút Iridovirus.. Nên thả nuôi cỡ giống lớn >15cm, cá khỏe mạnh, bơi lội hoạt bát. Nên tắm cho cá bằng nước ngọt trước khi thả nuôi.

– Mật độ nuôi phải đảm bảo vừa phải để tạo không gian sống cho cá, tăng cường ôxy, giảm thiểu dịch bệnh. Đối với cá song mật độ thích hợp là 25 con/m3, cỡ ≥ 12cm; cá giò mật độ 8 con/m3, cỡ ≥ 18cm; cá hồng Mỹ mật độ 25 con/m3, cỡ ≥ 10cm.

– Thức ăn cho cá: cá tạp là nguồn thức ăn chính trong nuôi cá biển hiện nay, cá tạp là vật trung gian dễ lây truyền các mầm bệnh, vì vậy cần phải rửa qua nước biển trước khi cho ăn; không sử dụng những cá tạp có nhiễm bệnh tế bào lympho. Ngoài ra, cần cung cấp đầy đủ thức ăn cả về chất và lượng cho cá nuôi, tăng cường bổ sung vitamin C vào khẩu phần ăn hằng ngày để tăng sức đề kháng cho cá.

– Trong quá trình nuôi, phải đảm bảo môi trường nước sạch sẽ, lồng lưới thông thoáng. Định kỳ 2 – 3 tháng vệ sinh lồng nuôi 1 lần, loại bỏ sun, hà, rong bám vào thành lồng, tăng sự lưu thông nước trong và ngoài lồng.

– Trước mỗi vụ nuôi cần thay lồng cũ bằng lồng mới đã được giặt sạch khử trùng và phơi khô. Trong thời gian biển động mạnh, cá nuôi dễ nhạy cảm và dễ phát sinh bệnh cần tránh thay lồng.

– Sát trùng các dụng cụ như xô, chậu, vợt, lưới…sau khi sử dụng bằng chlorin và phơi ngoài ánh sáng mặt trời.

– Định kỳ 2 tháng tắm cho cá 1 lần bằng dung dịch thuốc tím (KMnO4) hoặc formalin nồng độ 5‰ trong 15 – 20 phút.

– Khi phát hiện cá nhiễm bệnh, cần cách ly ra khỏi lồng nuôi để tránh lây lan. Cá bị bệnh chết phải vớt lên cho vào túi ni-lon và đưa lên bờ, tuyệt đối không vứt xuống biển hay xung quanh khu vực lồng bè nuôi.

– Khi trời rét, nhiệt độ nước xuống thấp dưới 150 C cần chống rét cho cá bằng cách hạ thấp lồng xuống sâu hơn hoặc di chuyển lồng đến khu vực nước sâu để giữ ấm cho cá.

Trung tâm Khuyến nông Quốc gia