Thứ Năm, 6/10/2022, 17:30

Bệnh kí sinh trùng trên cá biển

Cryptocaryon irritans là một sinh vật đơn bào có lông mao; trùng ký sinh trên da, vây và mang của cá, chúng gây ra hiện tượng đốm trắng và dẫn đến tỷ lệ chết cao.

Chúng lây nhiễm trên hơn 45 loài cá được nuôi trong các ao nước biển, đồng thời gây bệnh trên cá cảnh. Cryptocaryon irritans xâm nhập vào biểu mô của da cá, vây, mang và thậm chí cả mắt và nó tác động đến dịch cơ thể, phá hủy mô và toàn bộ tế bào của vật chủ. Cá bơi lơ lửng ngay dưới mặt nước, hôn mê và không phản ứng, hay cào cơ thể vào đáy hay thành bể hoặc lồng lưới, thở gấp và bỏ ăn. Các dấu hiệu lâm sàng của nhiễm trùng thường bao gồm các nốt sần màu trắng trên mang và thân, tăng sản sinh chất nhầy, đổi màu da, đục giác mạc, vây rách và mang nhợt nhạt. Sự lây nhiễm của C. irritans dẫn đến cá chết nghiêm trọng do ngạt thở, mất cân bằng thẩm thấu hoặc nhiễm vi khuẩn thứ cấp.

Cá biển bị nhiễm Cryptocaryon irritans

C. irritans gây bệnh có tính đặc hiệu trên vật chủ và có thể lây nhiễm cho hầu hết tất cả các loài cá biển và nó gây ra ’bệnh đốm trắng’ trên cá biển ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới. Mặc dù có thể lây nhiễm sang cá hoang dã, nhưng C. irritans chủ yếu gây chết cá nuôi trong hồ và trong các hệ thống nuôi trồng thủy sản thương mại. Nhiều phương pháp khác nhau, chẳng hạn như phương pháp điều trị vật lý, hóa học và miễn dịch, đã được phát triển để kiểm soát C. irritans gây bệnh.

C. irritans có một vòng đời trải qua trực tiếp bốn giai đoạn. Mỗi giai đoạn sống hiển thị các đặc điểm hình thái và cấu trúc riêng biệt, chẳng hạn như kích thước của ký sinh trùng và thời gian của vòng đời rất khác nhau. Giai đoạn ký sinh hấp thu chất dinh dưỡng, có hình dạng từ fusiform đến pyriform, nơi một hoặc nhiều sinh vật dinh dưỡng định cư. Trong giai đoạn này, ký sinh trùng chủ yếu ăn dịch cơ thể, mảnh vụn mô và toàn bộ tế bào. Khi thời gian cư trú tăng lên, đường kính của các loài ăn thịt cũng tăng lên. Sau đó, dấu hiệu lâm sàng điển hình của các nốt trắng có kích thước như đầu kim trên cơ thể và mang của vật chủ có thể nhìn thấy bằng mắt thường.

C. irritans sống liên tục trong biểu mô của da, mang, vây và mắt của vật chủ

C. irritans trưởng thành rời khỏi vật chủ và rơi xuống đáy của bể nuôi. Sau một vài giờ di chuyển chúng chuyển động chậm lại và chúng bám vào chất nền, vỏ bọc và cuối cùng biến đổi thành dạng, giai đoạn này thường xảy ra vào lúc trời tối. Tuy nhiên, khi vật chủ chết, chúng buộc phải thoát ra khỏi cá sớm bất kể lúc nào. Chúng được bao bọc bởi một thành nang dày khoảng 4 μm, ngăn không cho thuốc xâm nhập vào tế bào, phân tích các thành phần protein của thành nang và nhận thấy rằng các protein liên quan đến vận chuyển, dị hóa và sự phát triển và chết của tế bào được biểu hiện rất rõ, bao gồm vận chuyển qua trung gian da và các protein liên quan đến bài tiết tế bào và ngoại bào.

Sau khi rời khỏi các nang, các lớp di chuyển nhanh chóng để tìm và tiếp xúc với vật chủ của chúng, tấn công tích cực vào biểu mô bên trong 1 phút và sau đó biến đổi thành sinh vật ăn thịt. Một báo cáo cho rằng rằng huyết thanh và chất nhầy của cá sẽ thu hút mạnh loài loài ký sinh ăn thịt này, chúng có chứa các yếu tố tham gia vào quá trình C. irritans tìm kiếm và tiếp xúc với cá. Protease đóng một vai trò quan trọng trong việc C. irritans lây nhiễm và phát triển, khả năng lây nhiễm giảm dần trong 4 giờ, việc mất khả năng lây nhiễm trước có liên quan đến khả năng bơi và số lượng lông mao của cơ thể giảm, sự suy giảm năng lượng là lý do chính dẫn đến mất khả năng lây nhiễm. Chu kỳ sống của C. irritans là 1 tuần tuổi ở 27°C khi ký sinh trên cá Poecilia sp., Trachinotus ovatus. Tuy nhiên, vòng đời bị ảnh hưởng đáng kể bởi các loài ký chủ, dòng cách ly và các yếu tố môi trường, bao gồm nhiệt độ, độ mặn, nồng độ oxy hòa tan và quang chu kỳ.

Chu kỳ sống của C. irritans là 1 tuần tuổi ở 27°C khi ký sinh trên cá Poecilia sp., Trachinotus ovatus
Hàng năm, sự xâm nhiễm của C. irritans gây thiệt hại lớn về kinh tế, ảnh hưởng nghiêm trọng đến niềm tin của người nuôi trồng thủy sản. Mặc dù đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc tìm hiểu về C. irritans và ảnh hưởng của nó đối với cá, nhưng vẫn còn rất nhiều câu hỏi cần giải đáp.
Đầu tiên, chúng ta phải xác định xem các loài khác nhau có tồn tại trong chi Cryptocaryon hay không và liệu có các kiểu huyết thanh khác nhau của C. irritans hay không. Thông tin này cần thiết cho việc phát triển các vắc xin hiệu quả và ứng dụng của chúng trong thực tế.
Thứ hai, một phương pháp chẩn đoán đơn giản, nhanh chóng và khả thi là cần thiết để có thể trở thành một phương pháp cảnh báo sớm chính xác để phát hiện sự bùng phát của bệnh nhiễm trùng cryptocaryoniasis. Một phương pháp như vậy sẽ cho phép người nông dân thực hiện các biện pháp phòng ngừa càng sớm càng tốt, giảm thiệt hại kinh tế do dịch bệnh gây ra.
Thứ ba, sàng lọc các chế phẩm bổ sung vào thức ăn hiệu quả, chẳng hạn như các thành phần thực vật và phát triển vắc xin là hai cách tiếp cận đầy hứa hẹn để xác định các cách kiểm soát bệnh nhiễm trùng do cryptocaryoniasis.
Hồng Huyền
Tép bạc