Thứ Tư, 26/04/2023, 16:00

EMS: Phòng ngừa là chìa khóa giải quyết vấn đề

Phòng bệnh là chìa khóa thành công ngăn ngừa bệnh EMS gây ra trên tôm thẻ chân trắng

(Aquaculture.vn) EMS (Hội chứng chết sớm hay Hội chứng hoại tử cấp tính gan tụy), khiến tôm chết với số lượng nhỏ mà không có cảnh báo. Trên thực tế, có nhiều nguyên nhân gây bệnh EMS và tác nhân gây bệnh thường không cụ thể.

Phòng bệnh là chìa khóa thành công ngăn ngừa bệnh EMS gây ra trên tôm thẻ chân trắng
Phòng bệnh là chìa khóa thành công ngăn ngừa bệnh EMS gây ra trên tôm thẻ chân trắng

Trước hết, hãy phân tích nguyên nhân của EMS, chủ yếu được chia thành ba tình huống: thứ nhất là do vi khuẩn gây ra, thứ hai là do virus và thứ ba là do chất lượng nước bị suy giảm.

EMS do nhiễm khuẩn

Vibrio parahaemolyticus thường là nguyên nhân chính gây Hội chứng hoại tử cấp tính gan tụy ở tôm thẻ chân trắng. Sau khi tôm bị nhiễm Vibrio, bề mặt cơ thể phân bố nhiều đốm đen, tế bào sắc tố trong ruột lan rộng và chuyển sang màu đỏ; đầu tiên gan xuất hiện màu đỏ và chết rải rác, tiếp đến là một số lượng lớn tôm chết sau đó.

EMS do virus

Ở trường hợp này, EMS chủ yếu do Parvovirus gan tụy hoặc virus Hội chứng đốm trắng gây ra. Sau khi thể chất của tôm bị suy yếu nghiêm trọng, virus bùng phát trong cơ thể và gây ra bệnh EMS. EMS này là một triệu chứng muộn, hoặc biến chứng của nhiễm EMS do vi khuẩn.

EMS do suy giảm chất lượng nước

Nguyên nhân chủ yếu là do đạm amoniac hoặc nitrit cao, thiếu oxy tầng đáy vào ban đêm, chất lượng đáy ao suy giảm. Tôm chết thường xuất hiện ở đáy ao. Phần cơ của tôm chết có màu trắng và đục, kèm theo vỏ và râu không hoàn chỉnh. Hiện tượng này phổ biến hơn khi nuôi mật độ cao đến giai đoạn giữa và cuối vụ.

Các mối nguy hiểm của EMS gây ra cho tôm nuôi là rõ ràng. Vì tôm thuộc loài động vật thủy sinh hoạt động ở tầng giữa và đáy, thậm chí, một lượng tôm chết nhất định sẽ không được phát hiện ngay mà sẽ nổi lên và được phát hiện sau một khoảng thời gian nhất định. Và hành vi tôm nuốt xác chết cũng có thể gây ra các triệu chứng không rõ ràng. Vì vậy, khi phát hiện EMS, thường đã có một lượng tôm thiệt hại ở trong ao.

Sau khi tôm chết, sự tích tụ và phân hủy liên tục của thân thịt sẽ trực tiếp dẫn đến suy giảm chất lượng nước và trầm tích, đồng thời tạo ra hydro sunfua độc hại, amin và các chất khác. Đồng thời, xác tôm sẽ trở thành nơi sinh sản của các vi sinh vật gây bệnh. Sau khi bị tôm khác nuốt phải sẽ gây nhiễm trùng thứ phát từ bề mặt cơ thể và toàn thân khiến tôm khỏe mạnh bị ảnh hưởng, xuất hiện các bệnh nhiễm trùng như hỗng tràng, dạ dày, đen mang.

Khi EMS bùng phát, người nuôi sẽ tăng cường bổ sung thuốc, nhưng không có hiệu quả rõ ràng nào được nhìn thấy. Điều này là do trong quá trình nuôi mật độ cao, mồi và phân dư tích tụ trong ao lâu ngày, những phần mồi còn sót lại này tiêu thụ rất nhiều oxy hòa tan khi phân hủy. Theo thời gian, đáy ao nuôi tôm luôn trong tình trạng thiếu oxy hoặc oxy hòa tan thấp. Ngoài ra, phần mồi còn lại bị phân hủy để tạo ra các chất độc hại như nitơ amoniac và hydrosulfide trong điều kiện thiếu oxy. Ngoài ra, tôm sống trong môi trường thiếu oxy ở đáy ao lâu ngày, bị tác động thường xuyên bởi các chất độc hại nên EMS liên tục xảy ra.

EMS không phải là bệnh. Có nhiều lý do cho sự xuất hiện của nó. Do đó, không có phương pháp điều trị dứt điểm. Bởi vậy việc phòng bệnh là chìa khóa cho sự thành công.

Cải thiện sức khỏe tôm là chìa khóa

Bảo vệ gan tụy là cần thiết đối với các loài giáp xác (đặc biệt là tôm) ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng của chúng. Sức khỏe của gan tụy có thể cải thiện hiệu quả thể chất của tôm, và nó được chuyển hóa thành ecdysone trong giai đoạn tách vỏ để đảm bảo quá trình lột xác bình thường trong quá trình tăng trưởng. Thêm dầu khuynh diệp có thể ngăn ngừa hiệu quả các bệnh do vi khuẩn trên tôm như Vibrio và EHP.

Thả nuôi mật độ thấp, hợp lý

Ở Quảng Châu, Trung Quốc, người nuôi được khuyến cáo nên thả ở mật độ không quá 50.000 post/ao , tốt hơn là thả không quá 50.000 con tôm thẻ chân trắng trên mỗi ao. Nuôi với mật độ thấp hợp lý không chỉ có chất lượng nước tốt mà còn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của tôm, dễ nuôi tôm thương phẩm cỡ lớn. Ví dụ, trong những năm gần đây, Zhaoqing đã nối lại phương pháp nhân giống tôm càng xanh vào những năm 1980. Ao nuôi điển từ 10.000 đến 20.000 con/ao. Do ao thông thoáng, bể hấp thụ đạm amoniac và oxy quang hợp tốt hơn nên tôm lớn trên 50g, hiệu quả kinh tế cao.

Nuôi luân canh và nuôi ghép

Ao tôm được nuôi luân phiên với cá từ 1 đến 2 năm một lần hoặc nuôi cá và tôm trong cùng một ao. Thực tiễn sản xuất cho thấy, nuôi tôm cá xen kẽ có thể làm thay đổi môi trường sinh thái ao nuôi, giảm tích tụ nguồn bệnh. Thứ hai, nuôi cá và nuôi tôm trong cùng một ao có hiệu quả tương tự nhau. Nuôi ghép hợp lý các loài cá ăn thịt ăn tôm bệnh và chết có thể làm sạch ao và giảm sự bùng phát của dịch bệnh tôm.

Duy trì môi trường chất lượng nước tốt

Ao nuôi tôm phải có cống cấp và thoát nước riêng biệt, nước vào phải ngược dòng nước ra để tránh trùng lặp nguồn nước bẩn thải ra từ ao bệnh. Các yếu tố vật lý và hóa học chính của chất lượng nước ao nuôi tôm phải được kiểm soát ở trạng thái tốt, trong đó oxy hòa tan phải đủ, pH và nitơ amoniac phải ở mức bình thường. Định kỳ sử dụng sản phẩm tạo đáy oxy hóa để cải thiện chất lượng đáy.

Vũ Hải (Tổng hợp)