Theo một nghiên cứu mới, việc ăn cá được nuôi trong nước thải đã qua xử lý không gây ra mối đe dọa cho sức khỏe con người.
Nuôi trồng thủy sản trong nước thải được xử lý được thực hiện rộng rãi trên khắp thế giới. Tuy nhiên, có ít nghiên cứu khoa học liên quan đến việc liệu các loài được nuôi trong những điều kiện này có tích lũy đủ số lượng vi chất hữu cơ đủ để làm cho chúng an toàn cho con người hay không..
Do đó, các nhà nghiên cứu tại Đại học Ben-Gurion đã quyết định điều tra xem liệu một loạt các vi chất hữu cơ điển hình (OMP) – các nguyên tố vi lượng của kim loại nặng, dược phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân cũng như thuốc trừ sâu, dung môi và chất tẩy rửa – có tích lũy trong cá nuôi trong môi trường nước như vậy hay không.
Nghiên cứu của họ cho thấy rằng chỉ có lượng OMP tối thiểu tích lũy trong cá chép và nước thải dường như không ảnh hưởng đến các đặc điểm thương mại quan trọng khác của những con cá này.
Giáo sư Dina Zilberg, nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu sa mạc Jacob Blaustein cho biết: “Sự hiện diện của các chất siêu nhỏ trong nước có thể dẫn đến các tác động sinh học độc hại ở cá, bao gồm đột biến và nữ tính hóa cá đực do tiếp xúc với nội tiết gây rối loạn OMP”.
Xử lý nước thải cấp ba (TTWW) là giai đoạn thứ ba và cuối cùng của quá trình làm sạch giúp cải thiện chất lượng nước thải trước khi nó được tái sử dụng, tái chế hoặc thải ra môi trường. Việc xử lý này loại bỏ các hợp chất và chất vô cơ còn lại, như nitơ và phốt pho, nhưng không loại bỏ các hợp chất hữu cơ.
Trong nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, cá chép con(Cyprinus carpio) được nuôi ở môi trường nước 0%, 50% và 100% TTWW trong năm tháng. Bảy trong số 40 OMP được sàng lọc được phát hiện trong các mẫu nước ít nhất một lần. Trong số 19 OMP được phân tích trong các mô cá, bốn đã được phát hiện ở những con cá bị phơi nhiễm. Carbamazepine, một thuốc chống co giật và diclofenac, một chất chống viêm, được phát hiện trong cơ và gan của cá được nuôi trong 50% và 100% TTWW ở nồng độ có thể đo được. Nồng độ Carbamazepine-epoxide và Benadryl (diphenhydramine) dưới giới hạn định lượng (LOQ) trong cơ của cá bị phơi nhiễm, trong khi diphenhydramine được phát hiện trên mức LOQ trong hai mẫu gan của cá được nuôi trong 100% TTWW.
“Dựa trên những phát hiện này, TTWW có thể được sử dụng thành công để nuôi cá và cá được nuôi bằng TTWW đáp ứng tất cả các tiêu chuẩn hiện có về tích lũy kim loại nặng”, Zilberg nói. “Tuy nhiên, điều tra thêm về tích lũy OMP ở các loài cá ăn được khác nhau với thói quen cho ăn khác nhau là cần thiết để đảm bảo sức khỏe cộng đồng khi sử dụng TTWW cho nuôi trồng thủy sản.”
Nguồn: Mard.gov.vn